LTS: Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Báo Quân đội nhân dân có 4 liệt sĩ hy sinh ở các chiến trường. Đó là các anh: Tô Ân, Lê Đình Dư, Trần Tuấn ở Phòng biên tập Quân sự và Ngọc Nhu ở Phòng biên tập Thời sự-quốc tế. Báo chí, văn học đã viết nhiều về 3 anh. Còn với Ngọc Nhu, chưa có một bài viết riêng nào về anh, vì anh hy sinh ở chiến trường Quảng Trị ác liệt trong một tình huống, một khoảnh khắc quá hiểm nghèo, không có ai kể lại tường tận. Nhân dịp kỷ niệm 60 năm Báo Quân đội nhân dân xuất bản số đầu, xin trân trọng giới thiệu một bài viết ghi lại những câu chuyện, những cảm xúc về cuộc đời nhà báo Ngọc Nhu, qua hồi ức của một bạn đồng nghiệp thân quý của anh.
Hồi còn ở đơn vị làm cộng tác viên Báo Quân đội nhân dân tôi đã ngưỡng mộ cây bút Ngọc Nhu. Anh viết phóng sự “Đường qua rừng Lăng” như anh tắm mình, lăn lóc với công nhân, kỹ sư mở đường. Anh viết “Chủ tịch Hồ Chí Minh và tổng thống Mi-ri-bô-Cây ta bên bờ Hồ Tây” như anh đang làm người thư ký báo chí của Bác Hồ để quan sát suy ngẫm một sự kiện lớn và ghi lại bằng ngòi bút văn học tinh tế, ẩn sâu…
Về làm phóng viên từ đầu năm 1964, tự nhiên tôi kết thân với Ngọc Nhu. Cùng là lớp trẻ hăng đi hăng viết, cấp bậc vào loại thấp nhất toà soạn, Ngọc Nhu cùng với Vũ Huyến kéo tôi vào nhóm “hội đồng trung úy” để giúp nhau hành nghề và thương nhau như thể anh em. Sau trận bão tháng 8 năm ấy Ngọc Nhu rủ cả nhóm đạp xe tới “thăm nhà thằng lính mới Hồng Phương xem cơ sự ăn ở, đi lại của nó ra sao”. Thương cảnh nghèo khó của tôi lúc đó, trở về tòa soạn, Ngọc nhu cùng Vũ Huyến kéo nhau vào phòng Bí thư Đảng ủy Bùi Đình Kế báo cáo nóng hổi:
- Anh xem Tổng cục Chính trị còn gian nhà nho nhỏ nào xin cấp cho thằng Phương đi. Vợ chồng và 2 đứa con của nó đang tá túc trong mái lá như cái chái chuồng heo ở Ô chợ Dừa, mà một chiếc xe đạp cả nhà cũng không có. Anh nên xuống nhà tận mắt xem xét.
 |
| Từ phải qua trái: Nhà báo Lê Đình Dư, nhà báo Ngọc Nhu và nhà báo Nguyễn Đức Toại tại Vĩnh Linh đầu năm 1968. |
Hai ngày sau, Ngọc Nhu đi cùng anh Kế xuống kiểm tra. Từ đó mà tôi được làm thủ tục xét cấp nhà, từ đó mà tôi được mua trả góp chiếc xe đạp của cơ quan. Về làm báo, tôi mới viết được tường thuật, mẩu chuyện gương người tốt việc tốt mà Ngọc Nhu thì đã “cày” được cả xã luận thời sự rồi. Tôi thèm viết, tôi khâm phục, tôi bày tỏ lòng ao ước muốn vào cuộc như anh. Hiểu ý, Ngọc Nhu nắm chặt tay tôi và bảo:
- Cứ mạnh dạn thử sức, cứ cắt các bài bình luận ngắn, xã luận ngắn mình thích mà nghiền ngẫm, lần mò ra cung cách tìm ý, tìm từ, tìm cách lập luận, dàn dựng của người ta. Mày cứ viết đi, tao gợi mở thêm cho.
Tôi đã làm theo lời anh. Rất may, giữa năm 1966, do các anh viết ngôn luận của phòng quân sự đi vắng, tôi liều nhận viết bài bình luận ngắn mừng chiến thắng bắn rơi 4 máy bay Mỹ trong ngày. Tôi “bí mật “đưa anh Nhu xem qua, anh nắn lại cho mấy chỗ, rồi thủ trưởng tòa soạn sửa thêm và được đăng. Thế là tôi có được tác phẩm nghị luận báo chí đầu tiên.
Đến cuối năm 1967, tôi mới được điều sang tổ viết bình luận chiến sự thì anh Nhu rỉ tai bảo tôi:
- Lâu nay mày đi nhiều rồi, lần này tao phải ra mặt trận, mà đi thẳng vào Vĩnh Linh Quảng Trị cùng Lê Đình Dư. Tao khát viết phóng sự bút ký những đề tài nóng bỏng quá rồi.
- Sao ra đi như bột phát, đột ngột vậy?
- Phải đi chứ còn cơ hội nào nữa - Hình như ta sắp đánh rất lớn mà. Lần này tao đi biết là quyết liệt lắm. Có thể cả điềm lành, điềm dữ đấy.
Nói vậy rồi Ngọc Nhu ôm chặt tôi, bảo:
- Nhà mày chỉ có một chiếc xe, phải để cho vợ mày đi ở nơi sơ tán với hai con. Tao đi chưa biết dài bao lâu. Mày cứ giữ lấy cái xe đạp nam “cà tàng” của tao mà đi. Nếu có chuyện gì, thì sau này mày gửi lại cho cháu tao nhé…
Tôi nghe lời bạn mà nóng ran cả người:
- Sao mày nói gở thế! Đi là phải bình an chứ!
- Vợ tôi lúc đó nghe vậy cũng dụi dụi mắt. Mà lạ lắm, chiều hôm đó - theo anh Kim Đồng kể - Ngọc Nhu lại kéo anh Đồng, người bạn lâu năm, chí thân lên buồng làm việc, vừa cười, vừa nói: “Đánh nhau với Mỹ chuyến này, đừng có đùa. Tớ đi chuyến này chắc lành nhiều mà dữ cũng có thể có. Lê Đình Dư nhờ cậu giữ bức tượng cô giáo, tớ cũng nhờ cậu cất giữ mấy thứ này, nhưng nhớ kín miệng cho tớ”. Đầu tiên đó là một lọ hoa nho nhỏ, xinh xinh, màu nâu sẫm có điểm những nụ hoa màu trắng: Điều đáng nói, lọ hoa này thường được Q…, công tác ở báo Phụ nữ - một bạn gái, bạn văn rất thân của Ngọc Nhu, mang đến cắm một bông hoa trắng. Cậu ta còn đưa thêm một phong bì khá dày và nói nhỏ giọng: “Tớ chả giấu cậu làm gì, trong này có một số bài thơ của Q viết về tình yêu, về cuộc đời tặng mình, cậu cất giùm cho tớ”.
Buổi tối, trước ngày lên đường, Ngọc Nhu cùng Lê Đình Dư và anh Kim Đồng lại ngồi uống trà, nhâm nhi kẹo lạc và bàn rất nhiều về chuyến viết lách ở chiến trường. Anh Dư góp nhiều ý khá sâu sắc về cách tác nghiệp, làm sao khi đi theo bộ đội có thể lấy được nhiều tài liệu sống, quý hiếm để thổi hồn vào các tác phẩm như chuyện, bút ký. Còn Ngọc Nhu thì nói rất thẳng thắn: “Lâu nay nội dung các bài viết về các trận đánh, các gương chiến đấu còn na ná nhau. Bọn mình phải cố hết sức khi vào mặt trận phải “sờ mó” được “cái hồn”, cái “bên trong” của những điều mà mình muốn viết. Để được như vậy, không còn cách nào khác là phải trực tiếp sống và chiến đấu với anh em, phải bám sát bám sâu một đơn vị…
Cái ý tưởng, cái điều xác định đó của Ngọc Nhu cùng Lê Đình Dư đã tới rất nhanh.
Bác Khánh Vân sau này kể lại: Hành quân gấp vào Vĩnh Linh, hai anh và bác Khánh Vân cùng dự hội nghị dũng sĩ toàn mặt trận. Cả ba người đều ghi chép được rất nhiều, nhưng không một phút thỏa mãn. Vừa xong hội nghị, Nhu và anh Dư liền bám theo các đoàn xuống ngay đơn vị chiến đấu. Hai anh vượt sông Bến Hải hành quân dưới làn bom đạn suốt đêm, rồi sang ngay vùng Cửa Việt trong vùng chà sát hằng ngày của sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ. B52 cũng trút bom xuống từng giờ ở những nơi chúng nghi vấn có quân ta. Còn bác Khánh Vân luồn vào vị trí “kiềng” của tiểu đoàn 9, đang cùng đơn vị bạn vây hãm cứ điểm Cồn Tiên. Từ đây Ngọc Nhu, Lê Đình Dư phải ở cách xa bác Khánh Vân… Các anh đi về hai hướng khác nhau.
Những ngày ấy, chỉ trước cuộc Tổng tiến công Mậu Thân khoảng một tuần lễ. Chúng tôi ở tòa soạn đi dự giao ban bên Cục Tác chiến và đọc tin tham khảo đặc biệt, được biết: Ở vùng Cửa Việt, Mỹ dùng rất nhiều xe tăng có các dàn pháo hải quân yểm trợ càn quét rất dữ dội. Chúng ngửi hơi thấy quân ta đã luồn vào khá sâu để khống chế tuyến vận tải đường sông huyết mạch từ Cửa Việt. Những trận đánh ác liệt diễn ra hằng giờ. Thế mà sau này mới biết Ngọc Nhu và Lê Đình Dư đã cắm sâu trong tuyến phòng thủ của lính thủy đánh bộ Mỹ. Hai anh cùng sống, cùng chiến đấu với bộ đội như một người lính thực thụ. Thế mà ít ngày sau, một tin dữ điện từ mặt trận báo về: Hai nhà báo Ngọc Nhu và Lê Đình Dư đã hy sinh cùng nhiều đồng chí trong vòng vây càn quét của tụi Mỹ tại thôn Lâm Xuân Đông -Quảng Trị. Đó là một khoảnh khắc trong ngày 31-1-1968, cái khoảnh khắc mà hai ba tuần lễ sau bác Khánh Vân mới được một cán bộ của đơn vị chiến đấu ở mặt trận Cửa Việt kể lại vắn tắt:
- Anh Dư hy sinh hơi xa chỗ anh Ngọc Nhu, nên tôi không rõ tình tiết cụ thể. Tôi chỉ thấy được anh Nhu, lúc đó anh vừa mới tranh thủ ăn cơm giữa những đợt pháo địch bắn phá. Có lẽ ăn chưa được một bát thì bọn Mỹ tấn công. Anh bỏ cơm chạy tới công sự B40. Anh lấy máy ảnh ra và nói giọng khá to với một chiến sĩ giữ khẩu B40: Bình tình chiến đấu nhé! Cậu mà bắn cháy chiếc xe tăng kia thì hình ảnh cậu sẽ có trong cuộn phim này”. Nhưng chỉ giây lát sau, một quả đạn từ chiếc xe tăng đi đầu đã nổ đúng chỗ hai người, cách chỗ tôi vài chục mét. Sau đó là khói đạn mù mịt…
Thế là những ấp ủ với đề tài: “Cuộc sống hai bên bờ sông Bến Hải” của Ngọc Nhu đã dang dở trong cuốn sổ tay ghi chép, trong những thước phim thấm sâu vào lòng đất, lòng người Quảng Trị….
Nhận được tin anh Ngọc Nhu và anh Lê Đình Dư cùng hy sinh trong vòng vây lính thủy đánh bộ Mỹ, cả tòa soạn như ngừng thở. Hai cây bút tài hoa, hai cuộc đời say nghề, yêu đời của Báo Quân đội nhân dân không còn nữa. Tôi đang ngồi viết bình luận gấp mà nước mắt lăn dài trên má. Đêm đó, khoảng 11 giờ, khi bài được duyệt xong, tôi thắp 3 cây hương lẳng lặng đi ra sân, hướng về phía Nam, về Quảng Trị vái lạy 6 lần để tưởng nhớ anh Nhu và anh Dư. Theo đúng lời anh Nhu dặn, ít ngày sau tôi mang chiếc xe “cà tàng” của anh gửi lại vợ chồng tôi, trao cho người cháu của anh, như vẫn thấy hơi ấm của hai bàn tay anh Ngọc Nhu trên đôi tay cầm của hai đầu ghi đông chiếc xe. Ngọc Nhu đã ra đi, nhưng hoài bão, ngòi bút - tình người của anh vẫn sống mãi theo suốt cuộc đời làm báo của tôi.
HỒNG PHƯƠNG