Cách trung tâm phường Thái Bình (tỉnh Hưng Yên) khoảng 20km về phía Đông, nép mình bên dòng sông Đồng Giang, làng Đồng Xâm (xã Trà Giang, tỉnh Hưng Yên) đã in dấu trên bản đồ nghề truyền thống bằng những sản phẩm kim loại tinh xảo, mang đậm hồn cốt dân tộc. Âm thanh búa đục vang lên mỗi ngày từ các xưởng nhỏ, tạo nên nhịp sống đặc trưng của một miền quê gắn bó với nghề chạm bạc gần 600 năm.
Theo chỉ dẫn của người dân địa phương, tôi dừng chân trước ngôi nhà của Nghệ nhân nhân dân (NNND), cựu chiến binh (CCB) Phạm Văn Nhiêu - một trong số ít người thợ cao niên còn gắn bó với kỹ thuật chạm bạc thủ công truyền thống. Không bảng hiệu phô trương, căn nhà chìm trong tiếng kim loại va chạm, đều đặn như một bản nhạc nghề.
 |
Nghệ nhân nhân dân Phạm Văn Nhiêu miệt mài bên sản phẩm chạm bạc.
|
Dưới ánh đèn vàng hắt xuống mặt bàn thợ, ông Nhiêu khom người, tỉ mỉ đưa mũi chạm lướt qua bề mặt tấm bạc. Ở tuổi xưa nay hiếm, với bàn tay chai sần vì năm tháng, người nghệ nhân ấy vẫn đi những nét chắc nịch, dứt khoát. Thoáng thấy tôi, ông nở nụ cười hiền: “Cứ làm mãi rồi quen tay, thành phản xạ. Giờ không cầm đồ nghề lại thấy thiếu thiếu trong người”.
Tuổi 20 đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc
Sinh năm 1943, trong một gia đình có truyền thống làm nghề chạm bạc ở làng Đồng Xâm (xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, nay là xã Trà Giang, tỉnh Hưng Yên), ông Phạm Văn Nhiêu tiếp xúc với nghề từ thuở nhỏ. Đến năm 13 tuổi, Nhiêu đã thành thạo các kỹ thuật cơ bản và làm được nhiều sản phẩm đẹp.
“Sau Cách mạng Tháng Tám, làng tôi sôi động lắm. Nghề chạm bạc Đồng Xâm phát triển với quy mô tổ và 3 hợp tác xã, người theo nghề mỗi lúc một đông. Hàng chạm xuất đi Liên Xô, các nước Đông Âu đều đặn. Năm 1958, tôi mới có 15 tuổi nhưng đã được trở thành người thợ làm các sản phẩm quan trọng trong tổ”, ông Nhiêu tự hào.
Năm 1963, giữa lúc làng nghề đang khởi sắc, tay nghề ngày càng vững nhưng nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, Phạm Văn Nhiêu gác lại bàn chạm, lên đường nhập ngũ, bảo vệ quê hương. Sau 3 tháng huấn luyện tân binh, chàng lính trẻ được phân công về Đại đội Pháo binh 41, trực thuộc Quân chủng Hải quân.
“Năm 1965, trong một trận đánh tại ven biển tỉnh Thanh Hóa, tôi trúng mảnh đạn của địch vào chân và ngực. Vết thương đau buốt, nhưng khi ấy chỉ nghĩ đến trận địa, đến nhiệm vụ, tôi vẫn cố bám trụ cùng đồng đội, hoàn thành nhiệm vụ của mình”, ông Nhiêu nhớ lại.
 |
Trước khi trở thành Nghệ nhân Nhân dân, ông Phạm Văn Nhiêu từng là cựu chiến binh.
|
Năm 1966, Phạm Văn Nhiêu được biên chế về Đại đội Pháo binh 14, trực thuộc Quân khu 3. Đơn vị có nhiệm vụ phối hợp với dân quân địa phương, xây dựng công sự, trận địa pháo dã chiến, sẵn sàng đánh trả các đợt tập kích đường không và đổ bộ đường biển của địch... Năm 1970, do vết thương tái phát, sức khỏe giảm sút, Phạm Văn Nhiêu xuất ngũ, trở về địa phương.
Bàn tay thổi hồn vào bạc
Những năm tháng được rèn giũa trong môi trường quân đội đã hun đúc ở người lính trẻ Phạm Văn Nhiêu ý chí kiên cường, tác phong kỷ luật và tinh thần dấn thân vì cộng đồng. Trở về quê hương khi sức khỏe chưa bình phục hoàn toàn, ông không chọn nghỉ ngơi, mà tiếp tục theo đuổi nghề truyền thống chạm bạc của cha ông.
Nhờ tay nghề vững vàng và tinh thần trách nhiệm cao, ông được tín nhiệm giao phụ trách tổ cơ khí trong Hợp tác xã (HTX) chạm bạc Đồng Xâm. Năm 1987, ông được bầu làm Chủ nhiệm HTX, nơi tập hợp khoảng 400 đến 500 thợ thủ công lành nghề, đảm nhận sản xuất các mặt hàng chạm bạc tinh xảo, chủ yếu để xuất khẩu.
“Năm 1990, HTX chạm bạc Đồng Xâm giải thể, làng nghề bước vào giai đoạn khó khăn. Nhiều người thợ phải tự xoay sở tìm kế sinh nhai. Ai còn giữ được nghề thì bám trụ làm tại nhà, ai không trụ được thì đành rẽ sang hướng khác”, ông Phạm Văn Nhiêu chia sẻ.
Mang theo nỗi trăn trở về một làng nghề chạm bạc đang dần vắng tiếng búa, tiếng đục, năm 1993, ông Nhiêu rời quê hương, vào TP Hồ Chí Minh với quyết tâm giữ nghề và tìm hướng phát triển cho sản phẩm Đồng Xâm.
Tại đây, cơ duyên đã đưa ông gặp một thương nhân người Đài Loan (Trung Quốc) có niềm say mê đặc biệt với các sản phẩm thủ công truyền thống. Ngay khi nhìn thấy những họa tiết chạm tinh xảo mang dấu ấn văn hóa đặc trưng của làng Đồng Xâm, vị khách lập tức đặt đơn hàng đầu tiên. Nhận thấy đây là cơ hội quý giá để khôi phục và phát huy nghề tổ, ông Nhiêu trở về quê, mời 3 thợ chạm và 2 thợ gò có tay nghề cao cùng bắt tay thực hiện đơn hàng.
 |
Một số sản phẩm chạm bạc của gia đình ông Phạm Văn Nhiêu.
|
Những sản phẩm đầu tiên ra đời, được chế tác tỉ mỉ, chau chuốt từng đường nét, đã hoàn toàn chinh phục vị khách nước ngoài. Từ đó, mối hợp tác giữa ông Nhiêu và đối tác Đài Loan được thiết lập. Đây là bước ngoặt quan trọng, mở ra hướng phát triển cho nghề chạm bạc Đồng Xâm giữa bối cảnh khó khăn.
Để mở rộng quy mô sản xuất, ông Nhiêu chủ động tìm đến từng nhóm thợ, từng hộ gia đình có tay nghề để kết nối. Nhờ uy tín cá nhân và sự am hiểu nghề, khi ấy, ông đã tạo việc làm ổn định cho 100-150 lao động địa phương. Với sản phẩm đạt chất lượng cao, bảo đảm tiến độ và giàu tính thủ công, ông duy trì mối hợp tác bền vững với đối tác Đài Loan từ năm 1994 đến nay.
“Ngày trước, nghề chạm bạc ở Đồng Xâm chỉ truyền cho con trai và con dâu trong nhà, không dạy người ngoài. Vì thế mà suốt bao đời, làng tôi vẫn giữ được những bí quyết riêng. Đến nay, một số kỹ thuật không còn là độc quyền nữa, nhưng riêng nghệ thuật chạm (phần tinh túy nhất của nghề) thì người Đồng Xâm vẫn giữ được cái cốt, cái hồn của thợ xưa. Đó là thứ không nơi nào trên cả nước có được”, ông Nhiêu chia sẻ.
Xưởng sản xuất của gia đình ông Phạm Văn Nhiêu hiện nay là nơi tụ hội của những người thợ lão luyện, phần lớn đều có tuổi nghề trên 40 năm. Mỗi người phụ trách một công đoạn khác nhau trong chuỗi chế tác, từ trơn, đấu, đậu cho đến chạm. Mỗi bước đều đòi hỏi sự ăn ý, tinh tế và trình độ kỹ thuật thuần thục. Tùy theo từng mẫu sản phẩm, người thợ có thể phải tạo hình trước khi chạm, hoặc ngược lại, chạm trước rồi mới dựng hình khối.
Với ông Phạm Văn Nhiêu, chạm bạc không đơn thuần là nghề mưu sinh, mà là quá trình rèn luyện cả đôi tay lẫn ý chí. “Không có chỗ cho sai sót, chỉ một đường chạm lệch tay là cả sản phẩm coi như bỏ. Để theo được nghề, người thợ không chỉ cần đôi tay khéo, mà còn phải có óc sáng tạo, sự kiên nhẫn và một tình yêu thực sự dành cho từng mũi đục, nét chạm”, ông chia sẻ.
Gắn bó với chạm bạc gần 70 năm, ông thấm thía những đổi thay trong nhịp sống làng nghề. Niềm vui được sống trong tiếng đục, tiếng giũa mỗi ngày vẫn hiện hữu, nhưng trong ánh mắt ông không giấu được những trăn trở về tương lai của nghề truyền thống. Hiện nay, lớp trẻ theo học nghề ngày một thưa vắng, trong khi những người thợ lành nghề đã dần cao tuổi. Câu chuyện giữ nghề vì thế càng trở nên cấp thiết.
 |
Ông Nhiêu nâng niu sản phẩm tinh xảo của mình.
|
Trăn trở trước thực trạng ấy, ông Nhiêu dành nhiều tâm huyết cho việc truyền nghề. Nhiều năm qua, ông cùng các nghệ nhân trong làng tổ chức các lớp dạy nghề miễn phí, kiên trì hướng dẫn các học viên trẻ. Với những ai thực sự có đam mê, ông sẵn sàng mở cửa xưởng, tận tình chỉ dạy từng đường nét. Từ đôi bàn tay dạn dày kinh nghiệm của ông, những đôi tay mới lại dần hình thành, giữ cho nghề chạm bạc nơi đây chưa bao giờ tắt lửa.
Với những cống hiến bền bỉ trong việc bảo tồn và phát huy nghề truyền thống, ông Phạm Văn Nhiêu đã được Chủ tịch nước trao tặng danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú vào năm 2010, và Nghệ nhân Nhân dân vào năm 2016.
Ở tuổi 82, mái tóc đã bạc nhưng ánh mắt ông vẫn sáng rực niềm say mê với nghề truyền thống. Trải qua gần 70 năm đục đẽo từng hoa văn, họa tiết, ông không chỉ góp phần giữ gìn hồn cốt của làng nghề Đồng Xâm mà còn trao truyền ngọn lửa nghề cho thế hệ sau. Nhìn ông, người ta thấy rõ hình bóng của một thế hệ từng ra trận vì đất nước, nay tiếp tục miệt mài chiến đấu để giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống bằng đôi bàn tay nghệ nhân. Một đời làm lính, một đời làm thợ, ông Phạm Văn Nhiêu không chỉ trổ bạc mà còn trổ tâm, trổ nghĩa, khắc cả tình yêu với quê hương lên từng nét chạm.
Và có lẽ, chính những con người như ông đã làm nên giai điệu lặng lẽ mà sâu thẳm của làng nghề gần 600 tuổi, để mỗi khi nhắc đến Đồng Xâm, người ta lại nhớ về một câu hát mộc mạc mà đầy hình ảnh: “Tay anh trổ vàng/Tay em chạm bạc/Làm giàu cho quê hương…”.
Bài, ảnh: TRẦN HẢI LY
* Mời bạn đọc vào chuyên mục Phóng sự Điều tra xem các tin, bài liên quan.