Kỳ 2

Niềm riêng kẻ tỉnh, người mê!

Ba thương binh ở Khoa A2 đang đấu cờ với một cán bộ Trung tâm.

Người dân địa phương, đặc biệt là tại xóm Cối, rất ít khi gọi đúng cái tên Trung tâm điều dưỡng thương binh Nho Quan - nơi có những bệnh nhân tâm thần - đơn giản là họ có một cách gọi dễ nhớ hơn: Trại Thương binh C. Đây là tên gọi cũ ngày mới thành lập, nhưng nó đã trở thành một “thương hiệu” đặc biệt của vùng này. Mỗi khi muốn ám chỉ ai đó thuộc dạng thần kinh không bình thường, người ta lại tếu táo: Có cần vào “Thương binh C” không, giống như đối với “Trại điên Châu Quỳ” (Hà Nội) vậy.

Đối với những người làm việc trong “Trại tâm thần” thì càng không thể tránh khỏi những lời đàm tiếu kiểu ấy. Vất vả, nắng mưa, sớm tối bên thương binh, những người “tỉnh táo” ở đây cũng có bao nỗi niềm riêng. Hộ lý An Thị Tuyết, 51 tuổi, ở Khoá A1 nói với tôi: Nhìn các “y cụ” như vỏ chăn, dây vải, thanh sắt chốt cửa… lại thấy day dứt. Khi thương binh lên cơn động kinh, để bảo đảm an toàn, buộc lòng phải… cưỡng chế họ. Vỏ chăn để chùm đầu, dây vải để cố định tay chân, còn thanh sắt dùng để chốt cửa sau khi đã nhốt họ vào phòng…!

28 năm công tác tại Trung tâm, trong đó có gần 20 năm trực tiếp chăm sóc thương binh tâm thần nặng, hộ lý Tuyết mở lòng với tôi qua những trải nghiệm đời nghề:

- Nỗi đau lớn nhất đối với thương, bệnh binh tâm thần là họ không được làm người một cách trọn vẹn. Trách nhiệm của chúng tôi là làm sao giúp anh em được ăn uống, ngủ nghỉ, vui chơi, điều trị một cách tốt nhất, giảm dần những cơn hoảng loạn, kích động, xoa dịu nỗi đau về thể xác để anh em bớt khổ. Chẳng giấu gì anh, có lẽ chúng tôi đã “nhiễm” bệnh nghề nghiệp trong quá trình chăm sóc thương binh. Nhiều bệnh nhân bị nghễnh ngãng, phải nói rất to, thậm chí có lúc phải quát lên họ mới nghe. Vì thế về nhà, nói chuyện với chồng con mà chúng tôi vẫn hét oang oang, cứ như đang nói chuyện với người điếc…”.

Phục vụ thương binh tâm thần là chấp nhận sự nguy hiểm. Ở Trung tâm, không chỉ riêng bác sĩ Lâm Quang Đại mà nhiều người như y tá Trần Văn Mùa, hộ lý Phạm Ngọc Phức, Phạm Thị Suý, Trần Thị Hiệp… cũng bị thương binh đánh gây thương tích. Trong đó hộ lý Trần Thị Hiệp - người đã dũng cảm lấy thương binh tâm thần làm chồng - từng bị đập cả cái chai vào đầu, ngất xỉu, phải nằm viện điều trị 3 tháng, nay còn để lại di chứng. Đáng thương nhất là hộ lý Đinh Như Huyến (đã ốm chết vì bệnh), bị bệnh nhân đuổi đánh bằng một chiếc cuốc… Mọi người coi đó là nhiệm vụ nên chẳng ai đi xét nghiệm thương tật hay kêu ca, đòi hỏi chế độ gì.

Trong số những người tôi gặp, chị Hoàng Thị Tâm, ở Khoa A2, là một trong những nữ hộ lý có thời gian phục vụ lâu nhất tại Trung tâm, với hơn 30 năm. Trao đổi với tôi, chị không nói về mình mà lại kể chuyện thương binh:

- Kỳ lạ lắm, tuy là bệnh tâm thần nhưng họ rất thích nghe những bài hát truyền thống, nhất là về quân đội. Sau những phút kích động, họ thật hiền và rất tình cảm. Nếu ai có quà gia đình gửi vào cũng sẵn sàng đem chia. Người khoẻ mạnh thường hay giúp đỡ hộ lý, điều dưỡng viên các công việc như trồng rau, xách nước, quét nhà...

Giọng chị Tâm bỗng lắng xuống:

- Hầu hết các gia đình thỉnh thoảng vẫn đến thăm nom, động viên con em họ, nhưng cũng có trường hợp cả năm chẳng ngó ngàng, phó thác mọi việc cho Trung tâm. Người thương binh cũng rất cần tình cảm gia đình, dù họ bị tâm thần. Nhiều người khi hết cơn động kinh cứ ngồi bần thần, trầm cảm. Có anh đang đêm bỗng khóc tu tu. Lại có bệnh nhân chiều nào cũng hướng ra

Phục vụ thương binh tâm thần là chấp nhận sự nguy hiểm. Ở Trung tâm, không chỉ riêng bác sĩ Lâm Quang Đại mà nhiều người như y tá Trần Văn Mùa, hộ lý Phạm Ngọc Phức, Phạm Thị Suý, Trần Thị Hiệp… cũng bị thương binh đánh gây thương tích. Trong đó hộ lý Trần Thị Hiệp - người đã dũng cảm lấy thương binh tâm thần làm chồng - từng bị đập cả cái chai vào đầu, ngất xỉu, phải nằm viện điều trị 3 tháng, nay còn để lại di chứng. Đáng thương nhất là hộ lý Đinh Như Huyến (đã ốm chết vì bệnh), bị bệnh nhân đuổi đánh bằng một chiếc cuốc… Mọi người coi đó là nhiệm vụ nên chẳng ai đi xét nghiệm thương tật hay kêu ca, đòi hỏi chế độ gì.

cổng, như ngóng trông, chờ đợi ai. Thương lắm!

Nghe chị Tâm nói, tôi bỗng nhớ tới gương mặt đăm chiêu, khắc khổ của thương binh Bùi Văn Hai. Gia cảnh, nỗi niềm của ông thật éo le. Bị thương năm 1971, sau khi điều trị lành vết thương, ông xin Trung tâm về ngoại trú, thuận tiện cho vợ con chăm sóc. Năm 1998, vợ ông đột mất đi. Thiếu người xoa dịu vết thương mỗi khi trái gió trở trời, lại không muốn làm phiền các con, ông quyết định quay vào Trung tâm. Phận ông có Nhà nước lo coi như “sống gửi, thác về”, chỉ thấy chưa yên chuyện gia đình. Ông có tới 4 người con. Anh con cả và cậu con út may mắn tìm được việc làm. Còn cô con gái thứ hai và thứ ba đã ngoài 30 tuổi vẫn chưa có nơi nào nhận, buồn hơn là cả hai người đều chưa có chồng! Đã gần 70 tuổi, người thương binh này vẫn mong mỏi cái ngày được lên chức ông ngoại.

Với ông Bùi Văn Hai, cho dù hạnh phúc chưa trọn vẹn nhưng cũng có một gia đình, có những đứa con. Còn nhiều thương binh ở Trung tâm, trước khi ra chiến trường chưa kịp yêu một người con gái, và mãi mãi chỉ là chàng trai chìm đắm trong “cõi mộng du”, cả đến khi kết thúc cuộc đời. Thương binh Lê Văn Học, quê ở xã Ninh Thắng, huyện Hoa Lư (Ninh Binh) là một người như vậy.

Anh Học bị thương năm 1970, tại mặt trận Thừa Thiên - Huế. Nhiều mảnh đạn của giặc đã găm vào đầu, vào vai, vào đùi. Năm ấy, Học mới 22 tuổi, vết thương quá nặng làm anh không nhớ nổi tên mình… Anh là con trai cả của ông Lê Văn Sách và bà Trịnh Thị Thang. Mặc dù thuộc quân số tại Trung tâm điều dưỡng thương binh Nho Quan, nhưng ông bà vẫn thường xuyên đón anh về nhà, đến năm 2001 thì xin phép đưa về hẳn. Tiếp tôi trong căn nhà của người con trai út là Lê Văn Hoạt tại thôn Hành Cung, ông Sách bảo: “Em nó hiền lắm, bị tâm thần nhưng suốt ngày chỉ lẩn thẩn nói cười một mình. Chỉ duy nhất một lần thấy nó hút thuốc lào tôi can ngăn, đang lúc say thuốc nó bất ngờ thụi cho tôi một quả vào mặt...”.

Bị đánh, ông Sách không giận mà ôm lấy con, ứa nước mắt!

Niềm hy vọng, dù rất mong manh của hai vợ chồng già, là bằng tình thương và hơi ấm của gia đình có ngày anh Học sẽ dần dần hồi tỉnh. Tuổi trẻ của Học trôi đi bằng những miếng cơm, ngụm nước cha bưng; bằng bao giọt nước mắt âm thầm, lặng lẽ của người mẹ già; bằng những cơn đau vật vã của vết thương khi đêm hàn, nắng quái... Anh như một đứa trẻ: đói thì ăn, mệt thì ngủ, lên cơn thì… “chiến đấu”. Ông Sách đau nhói lòng mỗi khi thấy con hô “Pằng, pằng”, “Xung phong”, “Ôi đau quá”... Sau những giờ phút ấy, anh lại ngủ vùi dưới quầng mát dìu dịu từ chiếc quạt nan trên tay bà Thang. Thế nhưng, tình phụ mẫu, sự nâng niu chăm sóc đến tận cùng cũng không giúp anh Học sống được lâu hơn. Năm 2005 anh chết do vết thương tái phát. Lễ truy điệu đưa anh về nơi an nghỉ cuối cùng, rất nhiều người bật khóc! Cả làng Hành Cung xót thương khi nhìn bên chiếc quan tài phủ cờ tổ quốc vẫn thiếu những vành khăn tang… Trên ngôi mộ của “chàng trai” 57 tuổi ấy, vẫn hiển hiện những vòng hoa trắng!

Ông Sách ngậm ngùi: “Học chết được đúng 5 tháng thì bà nhà tôi cũng theo nó đi luôn.... Gia đình tôi năm ấy đại tang. Tôi chỉ tiếc là lúc Học còn sống, đã không nhận cho nó một đứa con nuôi. Gần 60 tuổi đầu, lại là con trưởng mà nó không có được phút giây làm bố, dù chỉ trên danh nghĩa. Các em nó mỗi đứa mỗi phận. Tôi còn sống thì thấy chúng cũng thương anh, nhưng chẳng biết mai này liệu có đứa nào để tâm đến ngày anh mất mà thắp cho nó một nén nhang!”.

Tôi lặng đi, không khí bỗng chùng xuống. Tôi không nỡ khuấy động phút giây của tình phu tử, và chính tôi cũng đang cần sự im lặng để nén chặt sự xúc động đang dâng lên… Tôi bỗng thấm thía hơn điều thiêng liêng sâu xa, vô tận của nghĩa mẹ, tình cha!

Nâng niu đốm sáng cõi người!

Chờ tôi chụp xong bức ảnh ba thương binh đang đấu cờ với một cán bộ điều dưỡng, bác sĩ Lâm Quang Đại, Phó giám đốc Trung tâm mới nói: “Đối với những trường hợp bị chết do tái phát vết thương như thương binh Lê Văn Học, Trung tâm sẽ làm hồ sơ đề nghị công nhận là liệt sĩ. Việc các gia đình đón thương binh về nuôi dưỡng là đáng trân trọng, khuyến khích. Tuy nhiên, chăm sóc bệnh nhân tâm thần là việc hết sức vất vả, nhiều trường hợp nhận về, sau lại trả vào Trung tâm”.

Rồi anh bỗng trở nên sôi nổi:

- Số thương binh hiện đang được chăm sóc một cách tốt nhất. Ngoài điều trị bằng thuốc, chúng tôi còn kết hợp với các hoạt động vật lý trị liệu - phục hồi chức năng, do đó tỉ lệ thương binh bị rối loạn, kích động đã giảm khoảng 60% so với trước. Anh em đã biết tập thể dục buổi sáng, nghe đọc báo giữa giờ, nghe đài, xem ti vi, đấu cầu lông, cờ tướng… Những hoạt động này đã giảm thời gian nhàn dỗi, giải phóng năng lượng thừa của cơ thể, giảm bệnh tật và tạo tâm lý vui vẻ, thoải mái cho bệnh nhân.

Rồi anh cho tôi xem những văn bản tổng kết năm, sơ kết quý. Chắc hẳn không cơ quan, đơn vị nào lại có nội dung “lạ kỳ” và chi tiết đến như thế. Tôi đọc, mủm mỉm cười. “Ở Trung tâm thường xuyên có 80% số người tham gia phục hồi chức năng, 12 người chơi bóng bàn, 17 người chơi cờ tướng, 7 người chơi cầu lông. Anh em được tắm giặt sạch sẽ, được cắt tóc gội đầu, 100% số người mặc quần áo, 95% đi dép và không có bệnh nhân nào cởi trần… Năm 2007, Trung tâm sẽ tích cực theo dõi phát hiện các bệnh nhân kích động, rối loạn để xử lý kịp thời, không để xảy ra tình trạng đánh nhau gây thương tích, phấn đấu giải quyết dứt điểm các cơn kích động, liên tục, kéo dài…”.

Thật là những con số trúc trắc ngồ ngộ, những câu từ có lẽ chỉ dùng trong y học “thần kinh”. Thế nhưng, vẫn toát lên nghĩa cử lặng thầm.

…Tôi tạm biệt Trung tâm điều dưỡng thương binh Nho Quan khi hoàng hôn đã nhuốm màu vàng sậm. Cơn gió lành lạnh vi vút thổi từ phía rừng quốc gia Cúc Phương - chốn hồng hoang nguyên sinh từng in dấu tích vượn người. Gió như muốn nhắn rằng: Nhân loại đã có cả triệu năm tiến hoá, để từ mu muội hoang thú kết tinh thành trí khôn người. Phải nuôi nấng, nâng niu thứ giá trị kỳ diệu của tạo hoá, chở che những phận người không còn thông tuệ. Chiến tranh tàn khốc đã làm cho bao người lính phải chập chờn sống trong cõi hư mê, hoang loạn. Nhưng khát vọng thế nhân, bản năng sống thiện, tập tính thực người… vẫn le lói trong căn bệnh tối tăm nghiệt ngã, hiện hữu qua những việc làm thơm thảo ở đời.

Ngồi viết những dòng này, tôi chiêm ngẫm sâu sắc hơn một điều: Vượt qua những bất trắc, bằng trách nhiệm, tình thương và lòng nhân ái, cán bộ, y, bác sĩ, hộ lý ở Trung tâm điều dưỡng thương binh Nho Quan đã giúp nhiều “bệnh nhân đặc biệt” có được phút giây LÀM NGƯỜI. Dẫu rằng phút giây ấy chỉ là câu nói, một hành động, thậm chí đơn giản chỉ là một ánh nhìn bình thường như bao người bình thường khác. Nhớ lại hôm vào Trung tâm, tôi may mắn được cảm nhận phút giây ấy. Đó là lúc một thương binh tâm thần rất nặng, thường xuyên kích động la hét, móc túi đưa cho tôi một điếu thuốc. Giọng anh thật ấm: “Hút đi. Thuốc lá cuộn thôi, hơi nặng, nhưng mà thơm. Mấy thằng trong tiểu đội tôi có lúc phải hút chung một điếu”. Tôi lặng người xúc động. Điếu thuốc, đốm lửa nhỏ, tình đồng đội, những tháng năm chia ngọt sẻ bùi… Từ cõi xa lắm, tưởng đã bị bạo bệnh vùi sâu, người thương binh ấy bỗng nhớ được thành lời!

Những cán bộ, nhân viên ở Trung tâm điều dưỡng thương binh Nho Quan vẫn từng ngày, từng giờ khắc khoải mong chờ những thanh âm thực người như thế…

Lê Thiết Hùng

(Hà Nội, tháng 10-2007)