Trong ngôi nhà nhỏ 3 gian ấy có 6 con người: 5 trẻ, 1 già. Túng thiếu về vật chất nhưng cái họ có, có rất nhiều và rất "giàu" đó là tình cảm: tình bà cháu, tình nghĩa xóm làng. Đặc biệt hơn cả là tình yêu loài cò. Mấy chục năm qua, cánh rừng phía sau ngôi nhà của họ đã là "tổ ấm", nơi đi về của không biết bao nhiêu thế hệ cò. 50 năm-khoảng thời gian ấy đủ dài và cũng đủ rộng để chứng minh cho mối "thâm tình" giữa những cánh cò kia với "người chủ" đã cho chúng "thuê đất ở" rồi. Đời cò vất vả và gian nan cũng có khác mấy so với những con người cần cù, lam lũ nhưng cũng rất thật thà, chất phác nơi đây.
Phận người cho cò "trọ"
Cụ bà Vũ Thị Khiêm sinh năm 1941, quê gốc ở Quảng Ninh. Năm lên 8 tuổi vì chiến tranh, gia đình Khiêm đã tìm đến miền đất Dừa Lẽ, Hải Lựu, Lập Thạch, Vĩnh Phúc để lập nghiệp. Và từ đó, cô bé Vũ Thị Khiêm có thêm một quê hương nữa, quê hương thứ hai của mình.
 |
Bà Khiêm và 2 cháu gái |
Ngày đó, nơi đây cây cối vẫn còn um tùm, cỏ dại, cỏ gianh, sim, mua... vẫn là "số đông" và tất nhiên khi đó chẳng có cò như bây giờ. Bàn tay con người đã rớm máu, mồ hôi đã đổ xuống để biến vùng đất hoang, khô cằn sỏi đá thành cánh rừng xanh mát. Những đám cỏ dại, cây bụi cứ hẹp dần, hẹp dần rồi "biến mất" hẳn, thay vào đó là tre, vầu, nứa, bạch đàn, vải, trẩu, sở, dung xen lẫn những khóm chuối xanh nõn, tốt tươi. Tuy nhiên, tre vẫn tỏ rõ ưu thế vượt trội về số lượng trong cánh rừng rộng gần 5ha của gia đình cô bé Khiêm. Đơn giản bởi tre dễ sống, tre đoàn kết, tre khỏe, tre giữ đất, giữ nước, măng tre ăn ngon nên người thích trồng tre là thế! Tre lớn nhanh lắm!
Đến những năm 1962-1963, các loài cây đã bắt đầu khép tán, lá sum sê. Mùa hè đến, gió thổi, tiếng thân tre va đập vào nhau, tiếng lá xào xạc nghe thật vui tai. Nhưng bất ngờ lớn nhất với bà Khiêm chính là sự xuất hiện của cò. Ban đầu chúng chỉ làm vài chục tổ ở những rặng tre sát bờ ruộng gần cánh rừng nhà bà, rồi chúng cứ rủ nhau về mỗi lúc một đông. Ngẩng đầu lên nhìn, đếm và bà vui sướng khi thấy sổ tổ cò cứ lớn lên mãi, sinh sôi nảy nở. Ngày ngày, sau bao công việc vất vả, được đứng giữa sân, mặt ngoảnh về phía đàn cò, nghe tiếng chúng, lúc í ới, lúc chí chóe bà lại thấy trong lòng nhẹ nhõm, bao mệt mỏi cũng chợt tan biến.
Lấy chồng, bà Khiêm ở chung với bố mẹ. Rồi các cụ qua đời để lại ngôi nhà, cánh rừng và lời di huấn: "Phải tiếp tục cho lũ cò ở, nghèo đến mấy cũng không được bắt cò”. Lời dạy ấy, bà Khiêm đã khắc cốt, ghi tâm. Suốt 50 năm qua, bà vẫn thường nhắc nhở các con cháu, nhắc nhở với chính lòng mình phải kiên quyết giữ gìn cho được vườn cò.
Hai năm sau ngày nhập ngũ đi chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên (năm 1968) chồng hy sinh, anh con trai cả cũng bỏ bà mà đi trong một tai nạn giao thông cách đây ngót 9 năm rồi. Người vợ thứ nhất anh lấy, sinh được hai người con rồi chia tay, người vợ thứ hai anh lấy cũng sinh hạ cho anh thêm ba đứa nữa. Con dâu bà “đi bước nữa”, nhưng cả 5 đứa cháu thì kiên quyết ở lại với bà.
Người con gái út thương mẹ lắm nhưng nhà chị cũng đâu có khá giả gì mà giúp đỡ được bà nhiều. Đau đớn, mất mát tưởng đã đánh gục người đàn bà với cái dáng người gầy gầy, nhỏ bé trông đến tội nghiệp ấy. Nhưng không, trách nhiệm với người con đã mất, lương tâm bà và sự động viên của bà con xóm làng đã giúp bà đứng lên để sống, vì con vì cháu (và vì cả đàn cò nữa). Bà vừa là cha, vừa là mẹ của các cháu. Sức già có hạn cũng may thay ông giời không bắt bà phải ốm, phải đau là mấy. Bà cháu với mấy sào ruộng trồng lúa, trồng màu cộng thêm chút ít tiền trợ cấp liệt sĩ của chồng bà, cứ rau cháo như thế mà nuôi nhau.
Thương bà vất vả, cái Hiên, cái Hiền, cái Thảo, thằng Bình hễ lúc nào được nghỉ học là lại lao vào giúp bà việc nhà cửa đồng áng. Chiều hôm nay là chủ nhật, cái Hiền, đang học lớp 9 nghỉ ở nhà, tập trung học ôn thi vào cấp III. Cái Thảo, học dưới chị hai lớp khoác lên người chiếc áo đi mưa, dắt chú bò ra cánh đồng cạnh rừng nhà để thả. Cái Hiên, giờ đang vừa học tại chức năm thứ 2 Trường đại học Quản trị kinh doanh, vừa đi làm cho Công ty Intimex ở dưới Hà Nội. "Vậy là mới được một cô lấy chồng. Còn vất chú ạ" (bà cười xòa). Bà đang loay hoay chặt buồng chuối rõ to của nhà ra thành từng nải đem dấm để bán và ăn một phần.
Chút nữa xong, bà lại phải đảo một vòng quanh vườn kiểm tra xem có kẻ xấu nào vào bắt trộm cò không. "Mệt lắm vì tôi giờ cũng đã già rồi! Tôi cũng làm đơn lên trên xin lấy cái hàng rào dây thép gai để chống trộm, nhưng mà... vẫn còn phải đợi". Rồi chuyện có dự án đầu tư muốn biến nơi đây thành khu du lịch sinh thái (bà đã thấy gần xuôi xuôi rồi) hứa sẽ làm cái hàng rào cho bà nhưng bảo bà không còn được làm chủ vườn cò nữa, tức là ngã giá nó, bà không chịu. Điều khiến bà buồn nhất đó là chuyện người ta đem đến đây mấy cục tiền và cái giấy hợp đồng để "đặt hàng" bà cung cấp cho họ mỗi tháng một lượng cò con để họ bán cho khách nhậu. Bà đuổi thẳng: "Tôi, các cháu dù có phải ra đường làm đứa ăn mày cũng quyết không làm cái việc thất đức ấy được. Vườn cò này nó là cuộc sống, là mồ hôi công sức của chúng tôi. Nếu anh đến xem, đến nghiên cứu thì tôi vui lòng tiếp nhưng bán để làm thịt thì… bà cháu tôi xin lỗi các ông". Việc xảy ra cách đây đã 2 năm.
Năm 2002, bà đã được Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường tặng bằng khen vì đã có thành tích đóng góp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và đạt Giải thưởng "Môi trường". Hiện nay, mỗi tháng Cục Kiểm lâm tỉnh Vĩnh Phúc hỗ trợ bà 270 ngàn đồng để bảo vệ đồi cò. Một chút hỗ trợ âu cũng là sự ghi nhận những đóng góp của bà.
Thân cò ướt áo trời mưa
Từ ngày cò về làm tổ đến nay, thấm thoắt vậy mà đã được 50 năm. Ban đầu chắc chúng chỉ đến "sống thử". Nhưng rồi cây rừng cứ lớn lên, to dần ra và lòng người yêu mến, đàn cò cứ đông mãi, đông mãi: 10 con, 100 con, 1.000 ngàn con, vạn con trông mỏi cả mắt. Đất có lành thì chim mới đậu. Đến nay vườn cò của bà đã được các nhà khoa học nghiên cứu đặt tên là “Vườn chim Hải Lựu” và xác định “… có 40 loài chim, thuộc 21 họ và 6 bộ. Trong số đó, có 29 loài định cư, 4 loài di cư và 7 loài vừa di cư, vừa định cư…”(*).
 |
Vườn chim Hải Lựu |
Năm nào cũng vậy, mùa cò về sinh sản cũng là lúc bà cháu mong mỏi nhất và... lo sợ nhất. Cò về làm tổ và đẻ con từ tháng 3 âm lịch cho mãi đến tháng 9 dương lịch. Sáng chúng đi kiếm ăn tản mạn, gần chiều tối mới lũ lượt trở về. Khi đó nhìn từ xa, cả cánh rừng chỉ thấy màu trắng đến lóa mắt của cánh cò bay lượn. Tiếng cò gọi con da diết, tiếng cò đánh nhau tranh giành cây làm tổ nghe chí chóe. Nhưng bà cháu bà Khiêm sợ nhất là tiếng kêu thất thanh của đàn cò. Chúng chỉ kêu như thế khi bị "ai đó làm phiền". Tiếng kêu báo hiệu có kẻ lạ mặt (thường là bọn trộm cò) đã vào vườn cò. Đã bao đêm bà Khiêm không ngủ được vì những tiếng kêu thảm thiết đó. Những chú cò con thường là đối tượng nhắm tới của lũ trộm cò vì cò chưa mọc đủ lông, cánh nên chúng chỉ biết kêu cứu. Bố mẹ chúng cũng chẳng thể làm gì hơn ngoài tiếng kêu. Thân cò yếu ớt, người bảo vệ chúng cũng già (hoặc còn quá trẻ) yếu ớt và đơn lẻ. Nhiều lúc thấy mình bất lực quá, người cũng chỉ còn biết... kêu.
Trong hội nghị điển hình tiên tiến toàn quốc về bảo vệ môi trường và cung cấp nước sạch (2008) bà lại đưa ra mong muốn được Nhà nước giúp đỡ bảo vệ đàn cò. Giá trị bảo tồn, du lịch sinh thái của vườn cò là điều ai cũng có thể nhận ra. Và tôi cứ băn khoăn mãi câu nói của bà khi dẫn tôi ra thăm vườn cò: "Rồi mai sau, lũ chúng nó (ý chỉ các cháu của bà) lớn lên chắc cũng như cánh chim kia bay đi nhưng vườn cò thì không thể mang đi nơi khác. Chẳng biết sức già như tôi còn sống được đến khi nào mà bảo vệ đàn cò?".
Nguyễn Phong Doanh (*) "Nghiên cứu thành phần loài chim và một số đặc điểm sinh học, sinh thái của loài cốc đen Phalacrocorax niger Vieillot, 1817 ở vườn chim Hải Lựu, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc” của Quan Thị Dung, k54B khoa Sinh, ĐHSPHN.