Kỳ 1: Đôi nét khái quát về Lý Sơn
Kỳ 2: Những báu vật vô giá
Kỳ 3: Âm Linh Tự và khu mộ lính Hoàng Sa-ngùn ngụt anh linh nghĩa sĩ
Trong những ngày công tác trên huyện đảo, tôi đã được các đồng chí trong Ban CHQS huyện Lý Sơn tạo điều kiện thuận lợi. Ngoài việc sắp xếp bố trí cho nơi ăn, nghỉ, các anh còn đặc biệt quan tâm, cử Trung tá Nguyễn Thành Định, Chính trị viên phó Ban CHQS huyện làm “hướng dẫn viên”. Anh Định là người con của đảo, nên thông thạo địa hình, am hiểu phong tục tập quán và đặc biệt là rất thông hiểu về các di tích lịch sử, quen biết tất cả các tộc họ ở các thôn, xã.
 |
| Tác giả cùng hậu duệ tộc Phạm Văn bên mộ chiêu hồn Chánh đội Phạm Hữu Nhật. Ảnh: Phùng Căn |
Có anh là người hướng dẫn, tôi đã không phải mất công tìm hiểu, hỏi thăm. Cùng đi với tôi còn có Trung tá Phùng Căn, cán bộ tuyên huấn Bộ CHQS tỉnh Quảng Ngãi, một cộng tác viên xuất sắc của Báo Quân đội nhân dân. Mấy ngày công tác trên đảo, gặp phải đúng dịp áp thấp trên biển đông, nên trời mưa không dứt, ba anh em đội áo mưa, cưỡi hon-đa len lỏi trong các ngõ nhỏ từ sáng đến tối. Cứ mỗi lần ghé vào nhà thờ một tộc họ, hoặc vào thăm một khu di tích, anh Định đều chuẩn bị sẵn hương, đèn, trái cây. Trước khi vào chuyện, anh xin phép các vị cao niên cho phép anh em trong đoàn công tác được thắp nén hương lên bàn thờ tưởng niệm các tiền nhân. Anh bảo: “Mình đến các dòng họ hỏi thăm, tìm tư liệu lịch sử cũng là dịp được thắp nén hương tri ân các bậc tiền bối, tỏ lòng thành kính biết ơn…”. Và có lẽ vì vậy mà công việc tôi dự định trước chuyến đi đều suôn sẻ…
Trong các di tích trên huyện đảo mà chúng tôi có dịp tìm đến, Âm Linh Tự và mộ lính Hoàng Sa là Di tích lịch sử cấp Quốc gia, được xây dựng tại thôn Tây, xã An Vĩnh, chúng tôi viếng thăm đầu tiên. Trên tấm chiếu trải trước tiền đường, các bậc cao niên trong Ban khánh tiết, gồm có: Cụ Nguyễn Từ, cụ Trần Bình Trọng, cụ Phan Din… tiếp chúng tôi như tiếp người nhà. Trong câu chuyện với các cụ, chúng tôi được biết, di tích Âm Linh Tự được xây dựng vào giữa thế kỷ 17, bằng đá san hô, không có mái che, thờ thần ở giữa, hai bên là tả ban và hữu ban. Đến đầu năm Gia Long (1802-1820), di tích được lợp mái bằng tranh và xây dựng thêm một căn nhà tây, có tên là Vĩnh Thượng Từ, để thờ vị thần tên là Thượng Thiên. Theo quan niệm của cư dân trên đảo, đây là vị thần đem lại sự bình yên cho ngư dân đi biển. Năm 1883, đền được tu sửa lần thứ hai, toàn bộ đền chính và nhà tây được dỡ bỏ mái tranh, thay vào đó là lợp ngói âm dương. Bộ khung nhà cũng được thay thế bằng hệ thống kèo cột vững chắc. Mặt đền gồm ba gian: Chính diện và tiền đường. Đến năm 1956, đền chính được tu bổ lại tiền đường, mặt chính diện xây bằng cửa vòm, bờ mái và bờ nóc. Mỹ thuật trang trí trong và ngoài của đền chính với nhiều chủ đề phong phú như: Tứ linh, tứ quý, tứ thời, bát bảo, sơn thủy tùng đình, triền chi, lưỡng long tranh châu… Phía trước sân xây dựng thêm tháp thờ “Chiến sĩ trận vong”, để thờ những người lính Hoàng Sa. Năm 1996 di tích được tu bổ quy mô, làm lại nhà tây và làm thêm nhà đông làm kho để các vật dụng lễ tế và ghe đua. Phía trước đền xây dựng cổng hoành tráng và vững chắc.
Theo chân các cụ đi thắp nén nhang tưởng nhớ anh linh những tiền nhân đã xả thân để xác lập chủ quyền lãnh thổ ở quần đảo Hoàng Sa, chúng tôi đếm được có cả thảy 14 hoành phi, liễn đối được cẩn xà cừ. Chỉ tiếc do trình độ có hạn, không thể ghi chép và nhớ hết tất cả nội dung, tôi chỉ kịp ghi lại đôi câu đối ở tại gian chính điện: “Địa nhựt tịch, dân nhựt phiêu, bạt hải lưu vong vòng lợi lạc/ Sơn như lệ, hà như đới, thiên thu miếu mộ dũng thần côn”. Có nghĩa là: “ Đất có hộ tịch, dân luân phiên nhau vượt biển xa xôi tìm nguồn lợi/ Núi như nước mắt, sông như vành khăn, ngàn năm miếu mộ vẫn còn lưu oai thần dũng”. Những người lính thay phiên nhau đi bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa, một đi không về, họ mất rồi, nhưng vẫn lưu oai thần dũng, lưu danh muôn thủa, khiến cho núi phải trào nước mắt, sông nổi sóng lô xô như vành khăn để tang thương nhớ họ.
Theo tài liệu “Lý lịch di tích”, Âm Linh Tự là nơi thờ tự, tưởng niệm những người lính Hoàng Sa hy sinh trong khi được cử đi làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền trên đảo, do chính các tộc họ có người đi trong các đội lính Hoàng Sa và cư dân trên đảo góp công, góp của xây dựng. Lịch sử về đội Hoàng Sa được ghi chép khá nhiều trong các thư tịch dưới triều Lê và triều Nguyễn. Sách “Toản tập Thiên Nam Tứ chí lộ đồ thư” của Đỗ Bá ghi rằng: “Giữa biển có dải một dải cát dài, gọi là bãi cát vàng dài độ 400 dặm, rộng 20 dặm, nổi lên giữa biển. Từ Cửa Đại Chiêm đến cửa Sa Vinh (Sa Huỳnh) mỗi lần có gió Tây Nam thì thương thuyền của các nước đi ở phía trong trôi dạt ở đấy; gió Đông Bắc thì thương thuyền chạy ở ngoài cũng trôi dạt ở đấy, đều cùng chết đói hết cả, hàng hóa đều nằm lại ở đó. Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa đông đưa 18 chiếc thuyền đến đấy lấy hàng hóa, được phần nhiều là vàng, bạc, tiền tệ, súng đạn”. Trong “Phủ Biên Tạp Lục” của Lê Quý Đôn, chép về đội Hoàng Sa như sau: “Ngày trước họ Nguyễn có thiết lập đội Hoàng Sa gồm 70 suất, lấy người xã An Vĩnh bổ sung. Mỗi năm họ luân phiên nhau đi ra biển, lấy tháng giêng ra đi nhận lãnh chỉ thị làm sai dịch. Đội Hoàng Sa này được cấp phát mỗi người 6 tháng lương. Họ chèo 5 chiếc thuyền câu nhỏ ra ngoài biển ba ngày, ba đêm đến đảo tha hồ lượm lặt, bắt chim cá để ăn. Họ lượm những vật dụng như ngựa, kiếm, hoa bạc, tiền bạc, đồ đồng, thiếc khối, chì đen, khẩu súng, ngà voi, sáp ong vàng, đồ chiêm dạ, đồ sứ, cùng đồi mồi, hải sâm và các loại ốc đẹp. Đến kỳ tháng tám trở về cửa eo, vào định lạng các sản vật rồi cho bán riêng các loại vỏ ốc đẹp, đồi mồi, hải sâm… xong cấp văn bằng trở về bản quán. Những sản vật lượm nhặt được ngoài biển có khi nhiều, khi ít không nhất định, có khi trở về không…
Họ Nguyễn còn thiết lập đội Bắc Hải không định trước bao nhiêu người, chọn người tình nguyện ở thôn Tứ Chính phủ Bình Thuận, hoặc xã Cảnh Dương để bổ sung vào, họ được miễn sưu thuế, miễn tiền qua đền tuần, qua đò. Quan trên sai họ chèo thuyền đến Bắc Hải, Côn Lôn, Cù Lao, Hà Tiên, Cồn Từ các xứ để bắt đồi mồi, hải ba, đồn ngư, lực ngư, hải sâm, chúa Nguyễn lệnh sai các đội Hoàng Sa quản lý luôn đội Bắc Hải vì đội này thu lượm ít sản vật và vàng bạc”… Từ các thư tịch trên cho thấy, Chúa Nguyễn đã lập đội Hoàng Sa, phiên chế 70 người, đội này chịu sự điều hành của Bộ Công, có khi nhà vua quyết định trực tiếp những việc hệ trọng. Hoạt động của đội được các sử gia thời Chúa Nguyễn ghi chép đầy đủ, tỉ mỉ, điều ấy cho thấy vai trò, vị trí của đội Hoàng Sa rất được coi trọng. Theo gia phả của các dòng họ ở Lý Sơn, thì định suất 70 người của đội Hoàng Sa được chia đều cho các dòng họ như: Phạm Quang, Phạm Văn, Trương, Võ văn, Võ Xuân, Lê, Nguyễn, Đặng ở làng An Vĩnh và dòng họ Nguyễn Dương, Trương, Trần, Võ, Lê, Mai ở làng An Hải. Gia phả của các dòng họ còn ghi: 70 người lính Hoàng Sa đi trên 5 chiếc ghe bầu (mỗi ghe 14 người), mang theo lương thực nước uống, mỗi người còn mang theo một đôi chiếu, 7 chiếc đòn tre, 7 sợi dây mây và một thẻ bài ghi rõ danh tánh, bản quán, phiên hiệu. Chẳng may tử nạn thì những người sống sót lấy chiếu bó xác, lấy đòn tre nẹp xung quanh, buộc dây mây chắc chắn, sau đó thả trôi trên biển, hy vọng xác chết trôi về được đảo Lý Sơn. Do vậy trên đảo mới lưu truyền câu ca dao: “Hoàng Sa lắm đảo nhiều cồn/ Chiếc chiếu bó tròn mấy sợi dây mây”…
Theo câu ca dao đầy chất bi hùng, chúng tôi đến khu mộ lính Hoàng Sa trong quần thể di tích này. Khu mộ chỉ cách Âm Linh Tự chừng 500 mét, tại đây có mộ cai đội Phạm Quang Ảnh và một ngôi mộ liếp (mộ chôn chung, không có nấm). Thực ra đây chỉ là khu mộ tưởng niệm Phạm Quang Ảnh và những người lính của ông tử nạn mất xác trên biển khi từ quần đảo Hoàng Sa trở về. Để tưởng nhớ những người đã khuất, các dòng họ đã nặn các hình nhân bằng đất sét, tương ứng với số người đã mất, mỗi hình nhân kèm theo 7 cành dâu (tượng trưng cho xương), một cuộn chỉ ngũ sắc (tượng trưng cho gân và mạch máu), sau đó được thầy pháp làm phép, lấy lòng đỏ trứng gà làm lục phủ ngũ tạng, lập đàn tế lễ để “chiêu hồn nhập cốt” cho từng người rồi mới an táng. Vì vậy nhân dân trên đảo gọi đây là mộ chiêu hồn, chứ không phải là mộ gió. Khu mộ này được giữ nguyên vẹn vốn có từ mấy trăm năm trước.
Di tích Âm Linh Tự và mộ lính Hoàng Sa là một phần đời sống tinh thần của hàng mấy chục đời các dòng tộc trên đảo, phản ánh một cách trung thực, khách quan về sự chinh phục thiên nhiên bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam. Đội Hoàng Sa không chỉ làm tròn nhiệm vụ lịch sử vẻ vang của dân tộc trong việc mở mang, bảo vệ bờ cõi; mà họ còn trở thành những người anh hùng bất tử, lưu danh muôn thủa, mà đời đời con cháu hôm nay và mai sau ghi nhớ, tri ân và kế tục sự nghiệp vẻ vang đó.
(còn nữa)
Ghi chép của ĐẶNG TRUNG HỘI
Kỳ 4: Khao lề thế Lính Hoàng Sa-Khúc bi ca bất diệt