Kỳ 1:  Đôi nét khái quát về Lý Sơn

Kỳ 2:  Những báu vật vô giá

1 - Khi đặt chân lên huyện đảo Lý Sơn, người đầu tiên tôi tìm gặp là cụ Dương Quỳnh 83 tuổi, người thôn Đông, xã An Hải. Cụ nguyên là nhà giáo, hậu duệ Thủy tổ - Tiền hiền họ Dương, là người am hiểu nho học. Sau khi đậu bằng Sơ học yếu lược, cụ vào đất liền học tiếp và thi đậu bằng tiểu học rồi về dạy học ở quê nhà. Năm 1949-1950, cụ dạy học tại Trường trung học Nguyễn Tự Tân (huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi). Sau đó, về quê dạy học liên tục từ năm 1955 đến năm 1975.

Phó chủ tịch nước thăm và tặng quà gia đình chính sách tại xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn năm 2007. Ảnh: ĐĂNG LÂM-TTXVN

Chính cụ Dương Quỳnh là người 10 năm trước đã dịch bản gốc “Bằng cấp” của quan Bố chánh và Án sát tỉnh Quảng Nghĩa cấp cho ông Đặng Văn Siểm làm “đà công” (dẫn đường) cho “đội hùng binh” (đội Hoàng Sa) đi giữ quần đảo Hoàng Sa, năm Minh Mạng thứ 15, từ bản gốc chữ Hán ra chữ Quốc ngữ. Nguyên văn bản dịch nghĩa như sau: “Quảng Nghĩa Quan Bố Án. Làm Bằng cấp chiếu theo tháng trước. Phụng theo tư văn của Binh bộ. Sắc chỉ của Bộ dự hành phát ban chiếc thuyền, tu bổ kiên cố tại kinh. Phái viên cùng thủy quân trước sang hợp đồng cho thuyền đi nhanh đến xứ Hoàng Sa. Tuân lệnh này tại tỉnh quyết định ba chiếc thuyền cùng vật dụng của thuyền sửa sang tu bổ lại ra đi trong năm này. Phái cho Võ Văn Hùng kịp tuyển chọn thêm người dân ở duyên hải am hiểu thành thục đường biển cho thuyền công thủy thủ trước sau là việc chính yếu. Mỗi thuyền tám tên lính; 24 tên lính phục vụ. Hạ tuần tháng ba vâng thuận đi nhanh. Nhơn chiếu theo các lý lẽ đã thỏa thuận, hiện đã phái thuyền nhanh đến căn cứ ấy (Hoàng Sa). Võ Văn Hùng đã lựa chọn người dân thiện thủy ông Đặng Văn Siểm có thể kham việc làm đà công. Nhân hiệp theo bằng cấp nên thừa hành một chiếc thuyền cùng thủy thủ trong thuyền theo phái viên đoàn binh cùng Võ Văn Hùng đồng đến xứ Hoàng Sa làm việc công. Việc hải trình quân yếu phải nên đem thực lực vâng làm được mười phần ổn thỏa, nếu xao lãng phải phạm tội nặng. Có các tên kê khai ở sau bằng cấp ấy. Phía hữu bằng cấp. Huyện Bình Sơn, phường An Hải, thuyền công Đặng Văn Siểm. Hoa Diêm thôn. Dương Văn Định cứ theo đó. Minh Mạng, năm thứ 15, tháng 4 ngày 15”.

2 - Rời nhà cụ Dương Quỳnh, chúng tôi tìm đến nhà cụ Nguyễn Sướng, 78 tuổi, ở đội 8, thôn Tây, xã An Vĩnh, là hậu duệ của chiến sĩ Hoàng Sa, Nguyễn Quang Tám.

Nghe chúng tôi trình bày nguyện vọng muốn tìm những chứng cứ, tư liệu liên quan đến những người trong dòng tộc tham gia đội Hoàng Sa, cụ buồn rầu nói rằng: “Dòng tộc tôi trước đây có lưu giữ 25 tập giấy tờ bằng chữ Hán, lưu truyền từ đời này qua đời khác, chỉ được phép mở ra vào ngày 8 tháng Giêng âm lịch, là ngày kỵ của dòng tộc, có đầy đủ con cháu trong họ. Tôi là người không rành chữ Hán, chỉ được nghe các vị cao niên trong dòng tộc kể, đấy là các bằng cấp của triều đình nhà Nguyễn cấp cho các vị tham gia trong đội lính Hoàng Sa, đi bảo vệ quần đảo Hoàng Sa. Cách đây chừng trên dưới hai mươi năm, có đoàn cán bộ nghe nói là nghiên cứu lịch sử về Lý Sơn, đã đến mượn toàn bộ số giấy tờ trên, đến nay vẫn chưa trả lại, chỉ duy nhất họ gửi trả cho dòng tộc một bản photocopy bằng chữ Hán Nôm về việc mua bán đất, giấy này đang được lưu giữ tại nhà thờ họ Nguyễn Quang”. Nội dung của văn bản này, theo cụ Sướng, đấy là khế ước bán đất của xã An Vĩnh để lấy tiền sung nhập cho đội Hoàng Sa. Rất may trong buổi làm việc với Bí thư huyện ủy huyện Lý Sơn, Trần Huy Thông, ông có cho chúng tôi xem bức thư của PGS, TS Lê Trọng, nguyên Viện trưởng Viện phát triển Quốc tế học (IID), đang là Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Kinh tế và xã hội, gửi cho ông cung cấp những chứng cứ về Hoàng Sa. Trong thư có đoạn nói tóm tắt đến nội dung của bản khế ước này. Xin được trích đăng nguyên văn nội dung đoạn thư có liên quan “…Chúng tôi đã được xem văn bản chữ Hán Nôm tại nhà thờ họ Nguyễn Quang, do hậu duệ Nguyễn Quang Bề cho xem, có nội dung là giấy bán đoạn mại đất  của xã An Vĩnh. Viên chức, hương chức họp tại đình làng đồng ưng làm văn khế bán đoạn đất của bổn xã cho vợ chồng ông Cai Hiệp, dòng họ Nguyễn Quang xã An Hải, lấy tiền lo sở phí cho những người sung nhập vào đội Hoàng Sa để đi ra canh giữ quần đảo Hoàng Sa của Tổ quốc Việt Nam chúng ta. Giấy đề ngày 12 tháng 3 năm thứ 5. Người bán đứt đất, bổn xã đồng ký chỉ. Cai Đình Nghị điểm chỉ. Viên chức, hương chức trong xã đồng ký (có 44 vị). Người làm giấy Đoạn mại này: Chấp sự An tự ký…”.

3 - Trong khi đi tìm thêm những cứ mới, chúng tôi vô cùng may mắn tìm được trong phụ lục của bản “Lý lịch di tích Âm Linh Tự và mộ lính Hoàng Sa”, các văn bản, tài liệu về đội Hoàng Sa. Đó là chỉ thị Thái phó Tổng quản binh dân chư vụ Thượng tướng công; Đơn xin của phường Cù lao Ré xã An Vĩnh; Đơn của phường An Vĩnh xin tách khỏi xã An Vĩnh.

Xin được trích đăng “Chỉ thị… Thái phó Tổng lý Quản binh dân chư vụ Thượng tướng công truyền kế hoạch: Sai Hội Đức Hầu cai đội Hoàng Sa luôn xem xét, đốc suất trong đội cắm biển hiệu thủy quân, cưỡi bốn chiếc thuyền câu vượt biển thẳng đến Hoàng Sa cùng các xứ đảo cù lao ngoài biển, tìm nhặt đồ vàng, bạc, đồng và các thứ đại bác, tiểu bác, đồi mồi, vỏ hải ba, cá quý đều chở về kinh, tập trung nộp theo lệ. Nếu ngạo mạn càn bậy không đến, lại gian dối lấy bớt các vật quý hoặc sinh sự với dân làm muối, làm cá, đều sẽ có trị tội. Nay sai. Ngày 14 tháng 2 năm thứ 9 hiệu Thái Đức (1786)”. Tài liệu này hiện đang được lưu giữ tại nhà thờ họ Võ, phường An Vĩnh, nay là thôn Tây, xã Lý Vĩnh, huyện Lý Sơn.

Bản dịch đơn xin của phường Cù lao Ré xã An Vĩnh “Ngày 15 tháng Giêng niên hiệu Cảnh Hưng thứ 36 (1776). Thần là Hà Liễu, Cai hợp phường Cù lao Ré, xã An Vĩnh về Kho Nội thuộc Hà Bạc, huyện Bình Sơn, phủ Hòa Nghĩa. Mong đội ơn trên: Nguyên xã chúng tôi từ xưa đã có hai đội Hoàng Sa và Quế Hương. Vào năm Tân Mùi, Đốc chiến là Võ Huệ đã đệ đơn xin tâu, được lập hai đội nữa là đội Đại Mạo, Hải Ba và Quế Hương Hàm với số 30 người, hàng năm thường nạp thuế bằng 10 thạch đồi mồi, hải ba, 5 lượng quế hương. Đến năm Quý Mão (1723) vâng mệnh trên truyền rằng: Dân trong thuộc Hà Bạc ai có bằng son đơn son thì nạp thuế biệt nạp và mang theo sổ sách, thế là dân số phải bổ sung, dân binh cũng bắt đầu. Đến đó quân nhân hai xã chúng tôi còn 23 người, phải bổ sung người và chi tiền đi đường như trước, nên cai đội mới đốc suất được công nhận từ việc đó đến nay. Bây giờ chúng tôi lập hai đội Hoàng Sa và Quế Hương như cũ gồm thêm đầu dân ngoại tịch, được bao nhiêu xin làm sổ sách xin nạp, vượt thuyền ra các cù lao ngoài biển tìm nhặt các vật hạng đồng (thiếc) hải ba, đồi mồi được bao nhiêu dâng nạp. Nếu như có truyền báo xảy ra chinh chiến, chúng tôi xin vững lòng ứng chiến với kẻ xâm phạm, xong việc rồi chúng tôi xin tờ sai ra tìm nhặt bảo vật cùng thuế quan đem phụng nạp, xin dốc lòng làm theo sở nguyện chẳng dám kêu ca. Chúng con cúi đầu mong ơn. Thân (xét): chuẩn cho”. Tài liệu này đang lưu giữ tại nhà thờ họ Võ, phường An Vĩnh, nay là thôn Tây, xã Lý Vĩnh, huyện Lý Sơn, Quảng Ngãi.

Cụ Dương Quỳnh (bên phải) giới thiệu bản dịch “Bằng cấp” của quan Bố chánh Án sát Quảng Nghĩa cấp cho ông Đặng Văn Siểm (dịch cách đây 10 năm). Ảnh: PHÙNG CĂN

Đơn của phường An Vĩnh xin tách khỏi xã An Vĩnh “Chúng tôi ở phường An Vĩnh, Cù lao Ré là nội phủ thuộc huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi, gồm có: Cai đội Nguyễn Văn Giai, Ngũ trưởng Phạm Văn Tha, Ngũ trưởng Lê Văn Liên, Ngô Văn Sầm, trùng chử Võ Văn Kê, cai đình hợp Võ Văn Khiết, tri thu hợp Phạm Quang Sam, họp nhân Phạm Quang Chử, thủ hợp Trần Văn Trinh, cùng toàn phường thân đơn kê trình: Mong ơn bề trên về việc: Nguyên do là đời trước ông cha Thất tộc chúng tôi ở phường này cũng đều là người xã An Vĩnh, đã chiếm dụng được xứ Cù lao Ré ngoài biển: phía đông giáp địa phận xã An Hải, phía tây liền biển, phía nam liền biển, phía bắc gần một cù lao nhỏ; đồng thời trưng thu các hạng thuế về nguồn lợi dầu thơm, hạt dẻ, mắm, quế hương, cá mắm khô ở trên bờ, lại xuống biển bắt lấy vỏ đồi mồi, vỏ hải ba và các vật quý dâng nạp để xin miễn sưu, miễn tiền về các việc khai thác ở đầm, ở vịnh… cùng với trách nhiệm do thám ngoài biển, nếu thấy bọn ác phỉ trên tàu ngoài biển thì trình báo, những việc đó coi là bổn phận giữ gìn ngoài biển.

Từ năm Quý Tỵ (1773) lại nay, phường chúng tôi biệt lập các chấp bằng đơn bằng về sưu, về thuế riêng, sau đó lại không thờ cúng riêng ở chùa, ở đình, ở miếu với dân xã An Vĩnh (trong đất liền-ND) đã trọn nhiều năm. Đến năm Tân Dậu (1801) sau khi quân nhà Trời đánh thắng, đất trời sáng tỏ, phường chúng tôi cùng cai đội trước đây là Nguyễn Giai đến gặp cai đội cũ là cụ Nguyễn Thụ, căn cứ lệ quy lập riêng thêm hai đội để quản về các thứ thuế, đó là đội Quế Hương Hàm và đội Phụng Du. Đến nay, Cai cơ thủ ngự là Phú Nhuận hầu trông mong ơn trên xét cho: Theo lệ các triều trước lập đội Hoàng Sa đại mạo hằng năm được nhận sai phái đốc suất người xã An Vĩnh cùng phường chúng tôi cưỡi thuyền ra các xứ đảo ngoài biển tìm nhặt các vật quý đem về kinh dâng nạp. Nay dân phường chúng tôi thầm lo rằng, chúng tôi ở trên cù lao ngoài biển so với xã An Vĩnh (trong đất liền - ND) thì hải trình ngăn cách xa xôi, sợ khi xảy ra công vụ việc giúp đỡ lẫn nhau sẽ khó khăn, đương nhiên là như vậy. Cúi xin: Bề trên mở lượng hải hà đoái thương dân nghèo, soi xét cho phường chúng tôi được lập riêng chấp bằng đơn bằng trong việc tuyển tập các đội vẫn theo tiền lệ, được tách biệt khỏi địa phận xã An Vĩnh để đội ơn trên một thể. Đồng thời xin miễn cho các việc như đắp đê ở xã ấy và bắt chúng tôi đền bù phần sau sưu thuế cho số dân phường chúng tôi đã đào tán lâu nay, tốn kém tài vật nhiều. Muôn lạy kính mong.

Thân (xét chuẩn y). Nếu quả thật xã ấy, phường ấy đôi bên xa cách đúng như lời trình bày của các cai mà ai cũng biết thì nên cho họ tách biệt. Ngày 11 tháng 2 năm thứ 3 niên hiệu Gia Long (1804).

Thân (xét truyền). Do công lao hệ trọng, bản phường phải điểm chỉ. Do có chút thành tích, do có phương án lớn đã trình bày. Được lập chấp bằng riêng biệt như đã xin… (có họ tên và chức vụ của 17 người đã điểm chỉ). Ngày 17 tháng 2 năm Giáp Tý (1804), các trùm trưởng, các vị hương chức của bản phường họp tại đình sao văn bản này…”. Tài liệu hiện lưu giữ tại nhà thờ họ Phạm Quang, phường An Vĩnh, nay là xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

Nội dung của các tài liệu này đã nói lên tất cả. Đây chính là những bằng chứng mới, gắn liền với việc mở mang bờ cõi, xác lập chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Tổ quốc ta.

(Còn nữa)

Ghi chép của ĐẶNG TRUNG HỘI

Kỳ 3: Âm Linh Tự và mộ lính Hoàng Sa-ngùn ngụt anh linh nghĩa sĩ