Kỳ 1: Đóng sẵn quan tài để... đánh giặc
QĐND - Ở vùng chiêm trũng huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, cách đây gần 60 năm, từng có một làng quê đặc biệt: Làng Đức Bản, xã Nhân Nghĩa. Tên làng, tên xã như đã ngầm “mặc định” một phẩm chất kiên trung, bất khuất, nghĩa tình cao cả. Họ thà hy sinh tất cả, hy sinh đến người dân cuối cùng, dù là người già hay trẻ em để bảo vệ bộ đội. 32 cụ già, thiếu niên bị giặc Pháp tra tấn, sát hại dã man mà vẫn không hé răng lộ nửa lời. Bác Hồ đã viết bài báo cảm động gọi đây là làng quê “không biết”...
“Ốc đảo” giữa 5 “gọng kìm”
Từ thành phố Phủ Lý, qua hai con sông Châu Giang và Long Xuyên, vượt qua những cánh đồng đang vào vụ gặt vàng rực, chúng tôi về thôn Đức Bản, xã Nhân Nghĩa. “Bây giờ đi lại dễ dàng thế, mấy ai hay ngày trước, khi chưa có con đê Đại Hà ngăn lũ sông Hồng, nơi đây đúng như một ốc đảo. 6 tháng trong năm, người dân phải chèo thuyền bằng tay để đi lại. Khi lũ rút, muốn vào Đức Bản, chỉ có một con đường độc đạo, lầy lội bùn đất. Người ta lại càng không biết thời chống Pháp, nơi đây gian khổ thế nào” - ông Bùi Công Toản, Phó trưởng phòng Văn hóa - Thông tin huyện Lý Nhân kể với chúng tôi về quê mình.
Như một quy luật tự nhiên, những nơi gian khó thường là nơi ươm mầm cách mạng. Có lẽ cái sự gian khổ, heo hút, địa thế ốc đảo này cũng phần nào tạo nên cốt cách con người nơi đây: Cần cù, chịu khó, chất phác, thật thà… Nhân dân thôn Đức Bản sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng, ngoài ra còn có nghề làm hương đen. Diện tích tự nhiên của thôn khoảng 40ha, gồm 135 hộ với 454 nhân khẩu. Khi xã Nhân Nghĩa trở thành vùng bị thực dân Pháp kiểm soát, thôn Đức Bản đã xây dựng được một tổ Đảng gồm 9 đảng viên, một chi đoàn thanh niên, một chi hội phụ nữ, một tổ phụ lão, một đội thiếu niên tiền phong, một đội du kích và cả một tổ “lão binh” có 26 người. Nghĩa là làng quê này tuy nghèo nhưng không yếu, mà có cả một thiết chế chính trị rất mạnh.
 |
|
Làng quê yên bình Đức Bản, xã Nhân Nghĩa từng có rất nhiều liệt sĩ hy sinh trên quê hương.
|
Ông Nguyễn Xuân Điểm, bây giờ mắt mờ, tóc bạc nhưng khi gặp chúng tôi, cách nói năng vẫn nhẹ nhàng, thận trọng, bình thản như một tố chất cần có của người dân vùng căn cứ địa. Thời đại dường như không chỉ tạo anh hùng mà còn tạo nên cả cốt cách quần chúng. Ông Điểm giờ là Bí thư chi bộ thôn. Nhìn lại ngày ấy, ông cho rằng, Đức Bản có một địa thế hiểm trở mà độc đáo. Chính vì là một ốc đảo, dù bị bao vây bởi các bốt giặc: Cống Nha, Cầu Không, Muồn, Thượng Vĩ nhưng nơi đây lại hết sức... an toàn. “Khi có giặc thì bờ cây, bụi cỏ thành chiến lũy và người già, phụ nữ, trẻ em cũng thành chiến sĩ. Quê tôi là vậy!” - ông kể. Ngày đó, đứng từ bên sông nhìn vào làng, chỉ toàn thấy những rặng ruối, nhãn, tre ngà cổ thụ. Nó như một bức tường lửa hòng che mắt địch, giúp ta kéo dài thời gian để củng cố lực lượng. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ở Đức Bản có 75 hộ gia đình thì cả 75 hộ đều đào hầm bí mật, có nhà đào tới 6 hầm để nuôi giấu bộ đội. Trong đó, có 20 gia đình thường xuyên nuôi và bảo vệ các cơ quan, đơn vị, tiểu đoàn 60, 37 của tỉnh, đơn vị 61 của huyện và nhiều cán bộ huyện đội, tỉnh đội, quân báo tỉnh, ty giáo dục Hà Nam. Có nhiều cán bộ cấp cao đã qua đường dây giao thông như: Đồng chí Đỗ Mười lúc đó là Chủ tịch tỉnh Hải Phòng; đồng chí Văn Tiến Dũng, Tư lệnh quân khu, Trung tướng Trần Nhẫn… Làng đã bảo vệ được gần 200 thương binh, gần 200 cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 738 của Sư đoàn 320. Du kích và dân quân trong thôn vừa tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu và đào hầm bí mật nuôi giấu cán bộ, bộ đội của ta rất cẩn thận và an toàn.
Không chỉ dân nuôi giấu cán bộ mà những ngôi đình, ngôi chùa cũng trở thành căn cứ. Từ năm 1950 - 1954, ngôi đình Đức Bản được bí mật dùng làm kho chứa vũ khí từ vùng tự do Liên khu III chuyển về để đưa sang Tả ngạn sông Hồng và ngược lại để chuyển lương thực, thực phẩm, thuốc men ra vùng tự do.
“Phụng, Sự, Chiến, Tranh”
Trung tướng Trần Nhẫn, năm nay 84 tuổi, nguyên Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân, ngày đó được giao nhiệm vụ là Trung đội trưởng Trung đội 2 Bộ đội địa phương huyện, nằm ở Lý Nhân, kiểm tra tuyến giao thông chiến lược từ căn cứ địa về đồng bằng (Quân khu Hữu ngạn đến Quân khu Tả ngạn - Liên khu III). Ông đã báo cáo với cấp trên vị trí chiến lược của Lý Nhân. Còn trong ký ức của ông, lòng dân mới là con đường lớn nhất. Ngày ấy, các ông được mẹ Nguyễn Thị Mịch che chở, nuôi dưỡng. Không chỉ vậy, cụ Mịch còn là mắt xích quan trọng nối thông tin liên lạc giữa hai bờ Tả ngạn và Hữu ngạn. Vào sáng sớm, cụ cắp một thúng hương đen rong ruổi đi bán khắp các ngõ xóm. Thực chất, dưới mấy nắm hương là toàn bộ số công văn, thư từ của bộ đội ta. Chỉ chờ thời cơ địch mất cảnh giác, cụ Mịch luồn ra phía bờ sông, chuyển tài liệu cho một đồng chí đã chờ sẵn. Không ai nghĩ, một bà già hơi thở đã yếu, tay run rẩy lại có thể là một liên lạc viên. Thông tin liên lạc được bảo đảm thông suốt, còn địch thì không hiểu tại sao lại như thế. Chúng ngày càng siết chặt canh gác, tuần tra nhưng vẫn không lần ra chân tướng sự việc. Lòng yêu nước thầm lặng mà sâu thẳm: Cụ đặt tên các con là: “Phụng, Sự, Chiến, Tranh”.
Sau thất bại nặng nề trong chiến dịch Biên giới (1950), tháng 4-1951, Pháp càn quét, bao vây, bình định vùng tự do huyện Lý Nhân. Riêng Nhân Nghĩa được chúng coi là một cái gai phải nhổ bằng được. Vì thế, chúng càn đi, quét lại ở Nhân Nghĩa suốt hai tuần đầu tháng 4, đóng chiếm Cống Nha, bắn giết, truy lùng, bắt bớ cán bộ, du kích, phá cơ sở, ép dân lập tề… Cuối cùng, chúng lập bốt Cống Nha và Nhân Nghĩa trở thành vùng chiếm đóng của giặc.
 |
|
Đình Đức Bản từng là kho chứa vũ khí của bộ đội.
|
Tháng 5-1951, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Quang Trung trên địa bàn 3 tỉnh: Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, trong đó có xã Nhân Nghĩa. Chiến dịch mở màn ngày 28-5-1951 và kết thúc thắng lợi ngày 20-6-1951. Sau chiến dịch, Văn phòng chi ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính xã Nhân Nghĩa chuyển từ Vạn Thọ về Đức Bản. Ở đây đã có cơ sở đảng, chính quyền xã Chung Lý và một bộ phận đơn vị bộ đội địa phương huyện đóng, đồng thời có các tổ quân báo của tỉnh về đóng ở Đông Quan, Lại Khê.
Sự yên bình chẳng tày gang. Ông Phạm Như Xuyên, sinh năm 1925 hiện sống ở thôn Đức Bản kể: “Sau chiến dịch Quang Trung, tháng 6-1951, tôi được cử về dạy học ở vùng du kích nhưng địch kiểm soát dữ nên không mở được lớp học. Tôi trở thành hiệu trưởng trường cấp 1 (không học trò) kiêm tổ trưởng tổ Đảng thôn Đức Ngoại. Đầu tháng 3-1952, địch quay trở lại, mở trận càn lớn nhất từ trước đến thời điểm đó mang tên Ăm-phi-bi trên đất Hà Nam”.
Ở đâu gian khó, hiểm nguy, ở đó cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Ông Xuyên còn nhớ trước lúc trận càn diễn ra, huyện ủy Lý Nhân đã cử đồng chí Dương Văn Duy, chi ủy viên về công tác. Một “hội nghị Diên Hồng” bàn cách chống càn được chi bộ xã họp trong đêm. Tổ Đảng của ông Xuyên lúc này có 9 đảng viên đều đi đầu trong cuộc chống càn. “Đức Bản có hai khu vực, tôi phụ trách một, đồng chí tổ phó phụ trách một, đảng viên thường xuyên bám nắm, chỉ đạo Đoàn thanh niên và Ban chỉ huy thôn đội, tới từng tổ chiến đấu. Ngày nào cũng hội ý, bàn bạc 3-4 lần. Đó là những ngày Đức Bản không ngủ, không có ban đêm” - ông Xuyên nhớ lại.
Trong những cuộc họp của chi bộ, tổ Đảng, có một câu được nhắc đến nhiều nhất: Muốn chống giặc, phải toàn dân đánh giặc, phải có một “làng kháng chiến”! Lời Bác Hồ kêu gọi: “Bất kỳ đàn ông đàn bà, bất kỳ người già người trẻ...” năm nào như còn văng vẳng bên tai. Cả thôn lúc này có 26 du kích thì cả 26 đều thề quyết tử bám đất giữ làng. Còn người dân thì đồng lòng đào hầm, góp gạo, chặt tre phục vụ chiến đấu. Đêm đêm rì rầm tiếng khoét đất đào hầm, thình thịch tiếng giã gạo. Hàng trăm hầm bí mật, hầm tránh đại bác, dự trữ lương thực, thuốc men ra đời. Bữa cơm ngày thường còn đầy gạo ngô nhưng thôn nghèo đã có ngay 30 hũ gạo kháng chiến với 6 tạ gạo. Gần 4 vạn cây tre được chặt làm chông, làm rào ngăn cản bước quân thù.
Ông Cao Văn Lưu, 80 tuổi, người thôn Đức Bản ngày ấy 20 tuổi, kể: “Chúng tôi đã lo phòng giặc từ lâu. Năm 1949, tôi đã vào tổ trật tự xã gồm 6 người, ngày đêm gác cho dân sản xuất và dùng ống nhòm, phát hiện địch để báo cho dân sơ tán. Khi địch về đóng ở Cống Nha năm 1950, tổ tạm thời giải tán thì chúng tôi lại làm chông, mìn đánh địch. Tôi tự làm bàn chông và giữ 2 quả lựu đạn, 3 quả mìn. Thời gian này, chúng tôi đã đào nhiều hố chông, gài mìn, với đủ loại chông bàn, chông cánh cửa, chông mũi. Riêng tôi đã làm tổng số 7 cái hầm bí mật, mỗi cái chứa được 6 người, đủ lương khô, nước uống dùng 3-4 ngày”.
“Mọi người thay phiên nhau đào hầm hào quên ăn quên ngủ, hầm hào là nhà. Nhiều cụ mắt mờ, chân chậm nhưng vẫn gắng sức làm những việc nhẹ nhàng. Cảnh tượng nhà nhà đào hầm, người người đào hầm dù đã mấy chục năm trôi qua nhưng tôi cứ ngỡ mới hôm qua”, ông Xuyên hồi tưởng. Nhà nào ít cũng đào được 2 hầm, nhà nhiều lên đến 5 - 6 cái. Trong ký ức của ông Xuyên, hình ảnh sâu đậm nhất trong ông là cảnh những người nông dân hối hả chặt xoan trong vườn rồi hì hục xẻ gỗ đóng... quan tài. Có tới 17 cái quan tài được đóng sẵn. Họ đóng quan tài cho... chính họ nếu cuộc chiến xảy ra mà ai nấy vẫn hồ hởi chuyện trò, sục sôi lòng căm thù giặc.
Xóm làng thành chiến lũy. Vườn tược hóa giao thông hào. Có cả một hệ thống hầm hào chằng chịt từ nhà này qua nhà khác, từ đầu làng tới từng ngõ xóm, bụi tre. Những bàn chông nhọn hoắt chờ địch. Những đôi mắt không ngủ, sáng quắc đón quân thù...
Kỳ 2: Khi “bầy quỷ dữ” tới làng
Ghi chép của NGUYÊN MINH - KẾ TOẠI