Tiến sĩ-Nghệ sĩ Nhân dân Phạm Thị Thành, nguyên là Giám đốc Nhà hát Tuổi Trẻ, nguyên Cục phó Cục nghệ thuật biểu diễn; hiện nay là Phó giám đốc Trung tâm nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc, Phó chủ tịch Hội liên hiệp VHNT Hà Nội, Phó chủ tịch Hiệp hội UNESCO Việt Nam, đại biểu HĐND thành phố Hà Nội... Nhưng ít người biết rằng chị còn là một Tiểu thư thứ thiệt. Vâng, một “tiểu thư đời chót”, bởi thân phụ của chị-Ngự tiền văn phòng đổng lý Phạm Khắc Hoè-là một trong những vị đại thần cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam.
Một ngày chủ nhật cuối năm Bính Tuất, chúng tôi ngồi lan man chuyện đời, chuyện nghề với “Tiểu thư đời chót”...
Không đi văn công, chắc vào bộ đội!
Chị quả quyết với tôi như vậy, bởi ngày Toàn quốc kháng chiến, mới hơn mười tuổi, chị đã được thân phụ đưa lên Việt Bắc, định gửi vào trường Thiếu sinh quân. Trong lúc chờ “tòng quân”, các cô chú trong cơ quan Bộ Nội vụ-nơi cụ Hoè làm Chánh văn phòng-thấy bé Thành có năng khiếu ca hát và diễn kịch, liền giới thiệu với các ông Thế Lữ, Học Phi, Nguyễn Xuân Khoát... Có lần, chú Tố Hữu còn khéo léo “sát hạch năng khiếu” của bé Thành nữa. Và thế là ngày 21-1-1954, Phạm Thị Thành được gia nhập Đoàn văn công trung ương, ngay tại đình Hồng Thái...
Cụ Hoè có cả thảy mười người con, nhưng chỉ một mình Phạm Thị Thành là sớm bộc lộ năng khiếu nghệ thuật và theo đuổi nghệ thuật đến cùng. Tư chất ấy có lẽ chủ yếu từ thân mẫu của chị, nữ sĩ xứ Huế, em gái của Ưng Bình Thúc Giạ Thị, một nhà thơ-soạn giả sân khấu xuất sắc những năm giữa thế kỷ 20, cháu nội của nhà thơ Miên Thẩm nổi tiếng Đàng Trong... Đến lượt Phạm Thị Thành, vào văn công chỉ được học truyền nghề nhưng diễn chèo, đóng kịch, múa hát... đều thành thạo. Chẳng thế mà ngay sau chiến thắng Điện Biên Phủ, chị được chọn vào dàn hợp xướng “Hoà bình” do ông Lưu Hữu Phước chỉ huy, sang Trung Quốc biểu diễn và thu đĩa. Vì chuyến công tác này mà chị vắng mặt trong ngày tiếp quản Thủ đô, nay nhắc lại còn xuýt xoa tiếc mãi...
Không được trở thành “cô bộ đội” nhưng Phạm Thị Thành cũng đã hai lần hành quân vượt Trường Sơn vào phục vụ quân và dân Miền Nam trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Lần thứ nhất là thời kỳ thi hành hiệp nghị Giơ-ne-vơ, đội văn công xung kích của chị biểu diễn từ sông Bến Hải vào tận Nam Trung Bộ, rồi theo chuyến tàu cuối cùng chở cán bộ tập kết ra miền Bắc. Lần ấy chị sắm vai cô bé trong vở kịch “Cai Tô” của Nguyễn Văn Thương, đóng chung cùng nghệ sĩ Song Kim, phu nhân của nhà thơ Thế Lữ. Lần thứ hai được gọi là “đi Bê” hẳn hoi; toàn bộ hồ sơ, tư trang, kỷ vật... gửi lại ở Uỷ ban Thống nhất của Chính phủ...
“Đốt lửa” là để “giữ đền””
Sau chuyến “đi Bê” năm 1965, Phạm Thị Thành được cử sang Liên Xô học đạo diễn sân khấu. Đang học năm thứ sáu, chị viết thư về nước cho bà Cục phó Cục nghệ thuật biểu diễn: “Sau này em muốn xây dựng một Nhà hát dành riêng cho khán giả trẻ. Nếu chị đồng ý thì em sẽ đi một số nước Đông Âu tìm hiểu kỹ mô hình này”. Về nước năm 1977, được lãnh đạo Bộ Văn hóa đồng ý, chị bắt tay vào viết đề án thành lập Nhà hát Tuổi Trẻ và đến giữa năm 1978 thì trở thành hiện thực. Đó là thời kỳ nước ta bắt đầu công cuộc đổi mới, nghệ sĩ được khuyến khích “nói thẳng, nói thật”. Phạm Thị Thành và Lưu Quang Vũ là những “thương hiệu” của sân khấu nước nhà thời kỳ “hoàng kim” những năm 80 của thế kỷ 20 với những vở diễn “để đời” như: Sống mãi tuổi mười bảy; Đỉnh cao mơ ước; Mùa hạ cuối cùng; Nếu anh không đốt lửa v.v... Ngoài 5 huy chương Vàng mang về cho Nhà hát Tuổi Trẻ, “cặp bài trùng” Lưu Quang Vũ-Phạm Thị Thành còn giúp các đoàn kịch trong cả nước giành được 16 huy chương vàng qua các kỳ hội diễn...
Không khí cởi mở nhưng rắc rối cũng không ít, bởi các vở của Lưu Quang Vũ-Phạm Thị Thành đụng chạm ghê quá. Nhiều vở cứ phải duyệt-sửa mãi mới diễn được. Thậm chí vở “Mùa hạ cuối cùng” sau khi công diễn, có vị quan chức kết tội các tác giả đã “bôi nhọ 17 cơ quan nhà nước”. Cũng may họ còn có những “ô dù” che chở. Kỷ niệm sâu sắc nhất của Phạm Thị Thành là lần diễn ra mắt vở “Nếu anh không đốt lửa” tại Cung văn hóa Hữu Nghị, có Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đến xem. Hôm đó, Thành và Vũ trèo lên chỗ đặt chùm đèn chiếu để quan sát nét mặt Tổng Bí thư. Gần cuối buổi diễn thì anh em gọi xuống gặp thư ký văn phòng trung ương Đảng. Ai cũng lo xanh mặt, hóa ra họ thông báo cuối buổi diễn Tổng Bí thư sẽ lên tặng hoa đạo diễn...
Sau buổi ấy, Phạm Thị Thành phấn khởi nói với anh chị em:
- Chúng ta “đốt lửa” là để “giữ đền” chứ không phải là những “Kẻ đốt đền”. Vì vậy mà vở diễn thành công!
Vẫn nỗi niềm sân khấu
Về hưu, Phạm Thị Thành dường như lại bận rộn hơn với vai trò chuyên gia của nhiều tổ chức văn hóa-nghệ thuật. Đặc biệt những năm gần đây, chị lại nổi lên với vai trò Tổng đạo diễn của nhiều đại lễ hội và chương trình nghệ thuật tổng hợp qui mô hoành tráng: Chương trình nghệ thuật tổng hợp kỷ niệm 50 năm thành lập Nước; Lễ hội mừng 990 năm Thăng Long; khai mạc và bế mạc các kỳ Festival Huế; lễ hội Đền Hùng; Kỷ niệm 115 năm sinh nhật Bác Hồ tại TP Vinh; Kỷ niệm 350 năm Khánh Hoà v.v...
Thêm một “thương hiệu” Phạm Thị Thành của những kịch bản đại lễ hội, những chương trình văn hóa-nghệ thuật tổng hợp trong thời kỳ hội nhập của đất nước. Phát đạt với sân khấu quảng trường nhưng chị vẫn canh cánh nỗi niềm sân khấu nhà hát những năm loay hoay chuyển mình cho phù hợp với cơ chế mới. Nhắc lại “Liên hoan toàn quốc sân khấu xã hội hóa lần thứ nhất-2006” vừa rồi, Phạm Thị Thành tâm sự: “Tôi đi tìm hiểu nhiều nước trên thế giới, họ không có khái niệm “sân khấu xã hội hoá” vì lịch sử sân khấu của họ từ khi hình thành đã xã hội hóa rồi. Tuy nhiên Nhà nước vẫn luôn luôn có một quỹ hỗ trợ sân khấu để “đặt hàng” hoặc hỗ trợ những vở lớn. Lịch sử sân khấu cách mạng nước ta có hoàn cảnh riêng. Nay thực hiện xã hội hóa là hướng đi tất yếu nhưng cần có lộ trình và cũng rất cần một quỹ hỗ trợ như vậy. Nhất là đối với các bộ môn sân khấu dân tộc, nếu Nhà nước không hỗ trợ kinh phí thì làm sao mà bảo tồn, gìn giữ?”.
“Nàng tiểu thư đời chót” vẫn còn nặng lòng với di sản nghệ thuật của cha ông lắm lắm...
Mai Nam Thắng