Chị Nguyễn Thị Thông, tiểu đội trưởng “Tiểu đội thép Truông Bồn” là người sống sót trong trận mưa bom của giặc Mỹ đêm 30 rạng sáng 31-10-1968. Chị là nhân chứng sống của tiểu đội gái chốt ở điểm thắt cổ chai Truông Bồn, ngày đêm vượt lên bom thù mở đường cho xe ta ra tiền tuyến. Tháng 7 tri ân, trong dòng người về với Truông Bồn, chị lặng lẽ đặt những bông hoa trắng, thắp nén nhang lên từng phần mộ các em. Chị nghẹn ngào đau đớn. Quá khứ cứ dồn nén, dội về trong ký ức chị về một Truông Bồn thép không bao giờ khuất phục trước kẻ thù.

Trên những tọa độ lửa

Năm 1964 thất bại thảm hại ở chiến trường miền Nam, giặc Mỹ leo thang ra đánh phá miền Bắc. Chúng huy động toàn bộ sức mạnh của không lực Hoa Kỳ ngày đêm đánh phá các tuyến đường, cầu cống, kho tàng hòng cắt đứt nguồn chi viện của miền Bắc vào chiến trường miền Nam. Tọa độ lửa Truông Bồn dài hơn 5km, nằm trên tuyến đường chiến lược 15A và cũng là điểm thắt cổ chai hiểm yếu nhất của các đường 7, đường 15A, đường 34 huyết mạch giao thông của miền Bắc chi viện cho miền Nam nhằm tránh “túi bom” của giặc Mỹ ở phà Bến Thủy. Nhưng giặc Mỹ đã không bỏ sót một cung đường nào, bằng hàng loạt loại máy bay chiến đấu hiện đại nhất, kể cả B52 đêm ngày giội bom đạn. Gần 30.000 tấn bom, đạn các loại giặc Mỹ giội xuống huyện Đô Lương, thì phần lớn Truông Bồn phải hứng chịu.

Vợ chồng bà Nguyễn Thị Thông nay ở tuổi 68 và 72.

Chị Thông nhẹ nhàng đặt tay mình lên từng tấm bia, như ngày nào âu yếm vuốt lên mái tóc thiếu lược, thiếu kẹp tóc của những đứa em yêu quý nhất trong tiểu đội. Hai dòng nước mắt cứ đổ dài trên đôi gò má gầy guộc, tái xanh của chị. Bất giác chị cho tôi biết trong niềm xúc động tự hào: “Tiểu đội tôi thuộc Đại đội 317 thuộc Tổng đội TNXP Nghệ An thời đánh Mỹ”. Chị nắm chặt tay ông Nguyễn Xuân Thỏa: Đây là Đại đội trưởng, người anh cả của chúng tôi đấy! Cả tiểu đội chốt ở trọng điểm Truông Bồn. Ông Thỏa xúc động đỡ lời: “Đại đội 317 chủ yếu là con em huyện Yên Thành, được thành lập ngày 18-5-1965. Đại đội có nhiệm vụ san lấp hố bom, chặt cây mở đường, bắc cầu qua khe suối, giữ vững tuyến giao thông huyết mạch thông suốt giữa hậu phương và tiền tuyến trên địa bàn Nghệ An. Trước khi về đứng chân trên cao điểm Truông Bồn, tiểu đội chị Thông trong đội hình của đại đội đã thực hiện nhiệm vụ trên những địa bàn vô cùng ác liệt được coi là tọa độ lửa ở Khe Thần (Tân Kỳ), Rú Đao (Nam Thanh, Nam Đàn), Cầu Phương Tích, cầu Cấm (Nghi Lộc). Trên những tọa độ lửa ác liệt này, hằng ngày đơn vị phải hứng chịu hàng chục đợt oanh kích với hàng loạt bom phá, bom từ trường, bom bi, bom sát thương và rốc két của không quân Mỹ. Chúng tôi thường gọi là “Tiểu đội thép”, bởi các chị đã xây dựng thành một tập thể có ý chí chiến đấu rất cao: “Còn một giờ ở đơn vị là còn một giờ ra trận địa”, “Đường chưa thông không tiếc máu xương”, “Sống bám cầu, bám đường; chết kiên cường dũng cảm”. Trên các tọa độ lửa “tiểu đội thép” đã phá, tháo gỡ an toàn hơn 200 quả bom các loại. Đã có rất nhiều chiến sĩ TNXP hy sinh hoặc mang thương tật suốt đời trong khi cứu hàng, cứu xe, làm cọc tiêu sống giữa ngầm cho xe qua dưới làn bom đạn của địch. Đêm 28-5-1968, khi đoàn xe vận tải của bộ đội nối dài 2km từ Truông Bồn đến Cầu Om, lũ giặc trời lại thi nhau thả pháo sáng, rồi giội bom. Có mấy xe bốc cháy, cả tiểu đội cùng lái xe xông vào dập lửa cứu hàng, cứu xe suốt từ 21 giờ tối đến 3 giờ sáng hôm sau. Thấm mệt, mắt thâm quầng, bụng đói lả, nhưng trên gương mặt các chị ai cũng vui, vì đã hoàn thành nhiệm vụ. Suốt đêm 30-10-1968, cả tiểu đội bám mặt đường thông cầu, thông xe định về nghỉ. 4 giờ sáng 31-10, với tinh thần chuẩn bị cho đợt vận tải hàng hóa lớn vào chiến trường, chị em không ngơi nghỉ nữa chỉ ăn vội miếng mì luộc rồi bám mặt đường củng cố giao thông. Và cái giây phút kinh hoàng ấy đã đến: Chỉ còn lấp một hố bom nữa là cả đơn vị hoàn thành nhiệm vụ thông đường, thông xe sớm. 5 giờ sáng, bất ngờ có tiếng còi báo động, máy bay Mỹ xuất hiện. Cả đại đội đã vào hầm trú ẩn, chỉ còn tiểu đội của chị Thông làm nhiệm vụ trực chiến nên còn phải kiểm tra xem hàng, xe đã an toàn chưa rồi mới lần lượt xuống hầm”. Chị Thông xen vào: “Quan sát thấy các em Tâm, Vinh, Doãn... là những người cuối cùng nhảy xuống hầm, tôi mới quay lại xốc chắc khẩu AK trên vai nhảy xuống theo. Máy bay Mỹ gầm rú xé cả đất trời. Một loạt bom đổ xuống làm chao đảo cả lòng đất. Đất đá đổ xuống vùi lấp trên đầu, chân Vinh còn giậm lên chân tôi. Tôi cố sức rút tay để tìm em, nhưng không thể nào rút ra được. Tôi thấy ngột ngạt, nặng như chì và chìm nghỉm trong bóng tối mà không biết gì cả”.

Bây giờ các em ở đâu?

Miếu thờ 11 cô gái của tiểu đội thép Truông Bồn.

Đêm ấy tôi ở lại Mỹ Sơn, cái làng gắn bó với “Tiểu đội thép” Truông Bồn. Tại vùng quê thương nhớ này, các cụ, các mẹ kể lại biết bao chuyện về sự linh thiêng của các liệt sĩ Truông Bồn. Bà con kể: Vào thời điểm xây dựng nhà bia tưởng niệm trong khu mộ, đêm đêm người ta thấy đèn đuốc sáng rực cả đất trời và có rất đông người qua lại. Tưởng công nhân tổ chức thi công ban đêm, các cụ rủ nhau ra xem nhưng gần đến nơi thì ánh đèn tắt vụt, vùng đồi vắng ngắt. Chỉ còn những nén nhang cháy lập lòe trong đêm vắng, dù hài cốt của họ từ lâu đã được chuyển về an táng tại nghĩa trang liệt sĩ quê nhà. Chị ngồi nghe mà trong lòng quặn thắt nỗi đau: “Các em ơi! Bây giờ các em ở đâu?”. Ông bà Thởm từng gắn bó với tiểu đội, cũng là niềm hạnh phúc đời chị trong những năm gian khó nhất của cuộc chiến tranh. Ông bà đã đến ngồi bên chị từ lúc nào không biết. Ông Thởm gạt vội những giọt nước mắt trên khóe mắt già nua của mình rồi cho tôi biết: “Trận bom vừa dứt, dân quân Mỹ Sơn tổ chức đi tìm kiếm cứu nạn, thấy một nòng súng trồi trên mặt đất, họ lắc lắc thì nghe có tiếng rên từ dưới lòng đất. Từ từ bới lên thì thấy một mái tóc nhuốm đất đỏ. Đào đưa lên thì không ai khác đó là cô Nguyễn Thị Thông, tiểu đội trưởng “tiểu đội thép” Truông Bồn, liền đưa vào nhà ông bà Thởm cấp cứu. Bà Thởm vội đi đun nước gội đầu và rửa qua người cho chị rồi sau đó đoàn cứu thương đưa chị lên tuyến trên cấp cứu”. Chị áp mặt vào ngực bà Thởm: “Con nhớ các em lắm mẹ ơi!”. Đã 40 năm 11 em gái thương yêu trong tiểu đội hãy còn nguyên vẹn trong tim chị. Tim chị quặn thắt khi nhắc đến em Nguyễn Thị Tâm, quê ở Hợp Thành, Yên Thành, Nghệ An. Tâm và Cao Ngọc Hòa (quê ở xã Diễn Lộc, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An) tiểu đội trưởng tiểu đội 6, yêu nhau suốt mấy năm trên tọa độ lửa. Đã chuẩn bị các thủ tục để về quê tổ chức lễ thành hôn. Sáng 31-10-1968, Hòa đến sớm hơn ngày thường định tham gia cùng tiểu đội gái thông đường xong thì xin phép đón Tâm về quê luôn. Chị vẫn nhớ như in Tâm bẻ nửa miếng bánh mì luộc đưa cho Hòa, chị em trong tiểu đội đã reo lên: “Nhớ cho chúng mình ăn kẹo cưới với nhé!”. Thế mà chỉ sau 30 phút đấy thôi, giặc Mỹ đã cướp hai em mất rồi. Còn các em Đinh Thị Vinh (quê ở Quỳnh Ngọc, Quỳnh Lưu), Hà Thị Đang (quê ở Sơn Thành, Yên Thành), Hoàng Thị Nhung (ở Phú Thành, Yên Thành)... hăng hái mê say với nhiệm vụ là vậy, thế mà trong giấc ngủ cứ mê sảng, khóc thút thít: “Em nhớ nhà lắm chị ơi!”. Còn Phan Thị Dung (Hợp Thành, Yên Thành), Vũ Thị Hiền (Tăng Thành, Yên Thành), Đàm Thị Bốn (Khánh Thành, Yên Thành) vừa mới khoe với chị: “Chúng em có giấy báo vào đại học rồi chị ơi!”. Thế mà bây giờ các em không còn nữa để đi tiếp niềm hạnh phúc ước mơ của mình. Còn Nguyễn Thị Hoài (Hưng Nguyên), Thái Thị Văn (Thượng Sơn, Đô Lương) nhỏ tuổi nhất lúc nào cũng nhờ chị gội đầu. Chúng bảo: “Không có lược, không có bồ kết, chị gội cho em vẫn thấy thích lắm”... Chị nói một mình như tâm sự với chị em trong tiểu đội: “Chị đã có chồng. Các em còn nhớ không? Vào một đêm mùa mưa, Tiểu đoàn 71, Trung đoàn 102, Sư đoàn 308 hành quân vào chiến trường Trị Thiên. Vượt qua Truông Bồn đoàn xe bị sa lầy. Cả bộ đội, TNXP chống lầy suốt đêm. Anh ấy vẫn là người hăng hái nhất, vui nhộn vô cùng. Đêm ấy, anh nắm tay chị rất lâu và chị chỉ vội trao cho anh tấm ảnh mà không nói nên lời. Nhưng chị cảm nhận như có một sợi dây vô hình buộc chặt chị với anh ấy. Sau đợt đi điều trị năm 1968, chị được chuyển ngành đi học may mặc ở Vinh. Chị ở trọ trong một gia đình ông bà già vào tuổi 80 ở phường Đông Vĩnh. Trên khung ảnh gia đình có một tấm ảnh của một người con gái, chị nhận ra là tấm ảnh chị tặng anh ấy ngày nào, chỉ khác ảnh được phóng to khổ hơn. Chị dường như trở thành cô dâu tình nguyện. Sau nhiều năm công tác ở chiến trường, sức khỏe suy giảm, lại là thương binh hạng 4/4, chồng chị phục viên về với gia đình. Bây giờ chị đã có 4 đứa con trai. Ba đứa đã có vợ, sinh cho chị được 4 đứa cháu. Cậu con trai út đang theo học Trường đại học Sư phạm Kỹ thuật Vinh. Mặc dù cuộc sống gia đình đang gặp nhiều khó khăn, bệnh tật trong người vẫn hoành hành, nhưng với chị thế là hạnh phúc lắm rồi. Chỉ màng một nỗi vắng các em. Những đêm mưa tầm tã, những trưa hè nắng lửa và gió lào, tâm can chị vẫn quặn thắt nỗi đau, nỗi nhớ các em vô cùng. Không biết bây giờ các em ở đâu?”.

Chúng tôi lại lặng lẽ vào nghĩa trang dâng hương. Thấm thoắt đã 40 năm trôi qua, kể từ ngày 31-10-1968 không bao giờ quên đó. Nơi các chị, các anh ngã xuống là một tọa độ lửa. Vết chém chiến tranh bây giờ đã được thay bằng màu xanh trù phú. Dẫu còn nhiều khó khăn vất vả, nhưng với tình cảm “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây”, cấp ủy, chính quyền và nhân dân trong huyện, trong tỉnh đã đóng góp quỹ tình nghĩa và hàng ngàn ngày công xây dựng Tượng đài “Truông Bồn chiến thắng” và khu mộ nơi các liệt sĩ đã ngã xuống. Nhưng Di tích văn hóa-lịch sử Truông Bồn cần được xây dựng xứng với ý chí kiên gan chiến đấu và sự hy sinh vô giá của các anh hùng liệt sĩ, để địa danh Truông Bồn ăn sâu vào tiềm thức của muôn đời con cháu, của quân và dân trong cả nước. Rất cần sự đóng góp tích cực về vật chất và tinh thần của quân và dân, nhất là tuổi trẻ trong cả nước đầu tư nâng cấp xây dựng để Tượng đài Truông Bồn Chiến thắng là địa chỉ đỏ, là hành trang vô giá của muôn đời con cháu mai sau.

Bài và ảnh: THUẬN THẮNG