 |
Quân giải phóng xông lên tiêu diệt Mỹ nguỵ ngay tại trung tâm thành phố Sài Gòn . Ảnh: Tư liệu TTXVN |
Sau đợt một
1 Mậu Thân năm 1968, Trung đoàn 88 chúng tôi tạm lui về Thanh An - Bến Cát để củng cố lại quân số, bổ sung lương thực, vũ khí chuẩn bị cho những trận đánh tiếp theo.
Ngày Ba tháng Tư, tôi cùng đơn vị đã áp sát khu vực đoạn Bến Súc, mạn bờ bắc sông Sài Gòn để vượt sang bên kia vào xã Phú Mỹ Hưng, Củ Chi.
Dẫn đường cho đơn vị tôi là năm du kích, một nam, bốn nữ hãy còn rất trẻ.
Địa bàn hoạt động của Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 88 chúng tôi là xã Tân Thạnh Đông. Nhiệm vụ được giao là phục kích, chặn diệt bộ binh, cơ giới Mỹ từ căn cứ Đồng Dù nống ra càn quét.
Dọc đường hành quân, đơn vị liên tục bị thám báo và pháo địch ngăn chặn. Đêm tối, địa bàn thì mới, không có vật che khuất, ruộng vườn xung quanh bom phạt gần như trống trơn, vì thế đội hình hành quân của chúng tôi nhiều lúc bị cắt quãng. Nhưng rồi mò mẫm mãi, cuối cùng chúng tôi cũng đã đến được nơi tập kết.
Đó là trong lòng một nhánh địa đạo hết sức chật chội. Hơi người, mùi đất lại thêm không khí oi nồng, mồ hôi người nào người nấy cứ nhễ nhại. Đã vậy, vài ba con dế trong ngóc ngách chốc chốc lại ré lên đến khó chịu. Ấy vậy mà chúng tôi cứ nhỏ to chuyện trò không ngớt. Dần dà khá lâu tôi mới biết các em trong tổ du kích kia mới mười bốn, mười lăm, ba má đều đã bị địch giết chết, có em không còn một người thân trong gia đình.
Qua hơn một ngày đêm chờ đợi, đến mùng 5-4-1968 thì có lệnh chuẩn bị tác chiến. Tôi cùng đơn vị chui lên khỏi địa đạo. Đêm Củ Chi trời tối như mực. Trên đường cách nơi bố trí trận địa chừng hai cây số nữa thì bị pháo địch từ căn cứ Đồng Dù bắn ra tới tấp. Kế đó là pháo sáng ở các đồn xung quanh cũng thi nhau ném lên không trung những chùm lửa sáng lòa. Trong cái mớ hỗn tạp của mùi đạn pháo khét lẹt cùng với những âm thanh chát chúa xé lên bên cạnh. Dù hai tai lùng bùng khó chịu nhưng tôi vẫn còn nghe được có tiếng ai đó giật cục ở sau lưng: Bị rồi, bị rồi chú ơi.
Quay lại phía sau tôi thấy một em du kích có lẽ là lớn tuổi nhất trong tổ đang khẩn khoản nói như ra lệnh:
- Cứ đưa các chú đến cho kịp. Thương binh cáng đi, liệt sĩ để tui lo.
Để em nói xong, sáp lại gần tôi hỏi:
- Em nhỏ thế này, sao khiêng nổi?
- Không sao đâu chú ơi.
Trong trận bị pháo địch đêm hôm ấy, trung đội tôi hy sinh một, bị thương năm. Người hy sinh là Nguyễn Văn Cơ quê ở Hà Nam. Anh bị một mảnh đạn pháo găm vào ngực thấu phổi. Máu từ ngực anh qua mấy lớp vải băng cứ ục ra thấm đỏ cả vùng bụng. Mọi người trườn tới vây quanh anh, còn tôi thì lặng người đi với niềm thương đau vô hạn. Tuy mới bổ sung về đơn vị, lại phải di chuyển nhiều và tác chiến liên tục nên Cơ và tôi chưa có dịp nào để kể cho nhau nghe về chuyện riêng của mỗi người. Giờ thì đã muộn mất rồi. Tôi như muốn ôm chầm lấy anh mà khóc.
Biết không sống được, trước khi trút hơi thở cuối cùng, Cơ cố móc trong túi ra đưa cho tôi một gói nhỏ ni lông và đôi mắt cứ nhìn tôi chằm chặp. Hai tay run run anh cố đưa gói nhỏ ni lông lên khỏi ngực để tôi cầm lấy. Hiểu ý Cơ, tôi ghé sát tai vào miệng anh, trong tiếng thở gấp, Cơ thều thào: "Mẹ tôi… mẹ tôi… đưa về… về…”. Cơ không nói được hết câu thì mặt anh đã biến sắc và đôi mắt cũng dần nhắm lại.
Không ai bảo ai, nhưng tất cả chúng tôi đều đau đớn đến lặng người, ai nấy mắt cay xè. Theo đó, xác anh đã được du kích gói trong chiếc võng ni lông vừa lấy trong bồng của ai đó ra. Những cái thít cuối cùng của từng nốt dây dù bó lấy hai đầu võng như những chiếc ghim cứ dần xoáy sâu vào tim tôi đau nhói. Tôi thầm nghĩ: "Rồi mai mốt có thể tôi cũng là người như vậy. Chiến tranh mà".
Mọi việc vừa xong, một du kích giương khẩu AR.15 chĩa thẳng lên trời bóp cò. Hai, rồi ba loạt đạn vang lên khô khốc. Tôi đang phân vân lo làm sao để nhanh chóng đưa liệt sĩ ra khỏi nơi này, bởi tiếng súng vừa nổ rất dễ làm mồi cho thám báo quanh đây. Thế nhưng không phải đợi lâu, chưa đầy 20 phút sau tôi đã thấy có một tốp bốn người xuất hiện. Họ đến để mang Cơ đi. Trước khi mang Cơ đi, mấy em du kích còn nhắc chúng tôi ghi rõ quê quán, tên tuổi, đơn vị của anh để sau này hòa bình người thân ở quê vào dễ kiếm.
Tuy có thương vong, nhưng khoảng ba giờ sáng hôm sau, đơn vị tôi cũng đã đến được vị trí theo quy định. Vừa đến nơi là chúng tôi bắt tay ngay vào củng cố trận địa. Đến tờ mờ sáng thì mọi việc đã hoàn tất.
Sau những giờ phút hiếm hoi được yên tĩnh, đến gần 8 giờ sáng thì bỗng có chiếc I.L9 bay qua. Tiếp theo là hai chiếc trực thăng cá lẹp vừa bay vừa bắn. Hàng loạt rốc két cắm xuống các khu vực khả nghi, khói lửa tung lên mặt đất mịt mờ. Linh tính báo cho tôi hay: "Sắp đụng địch rồi".
Chỉ một lát sau, từ trong hầm, tôi đã nghe có tiếng xích sắt rít lên cùng với tiếng nổ ầm ầm của động cơ xe tăng vọng lại mỗi lúc một gần. Tôi thít lại thắt lưng, kiểm tra lại súng đạn, buộc chắc hơn con dao găm cùng túi thương và mấy thứ khác cho khỏi lỉnh kỉnh.
Tôi nhìn sang xung quanh, tất cả đều đã sẵn sàng.
Theo hiệu lệnh, tất cả chúng tôi đều bật mở nắp ngụy trang, sẵn sàng xuất kích. Khoảng 10 giờ sáng thì lực lượng chặn đầu của Tiểu đoàn 8 bên đường đã nổ súng trước. Trên trời những chiếc máy bay lượn qua, lượn lại bắt đầu rải bom.
Pháo địch ở căn cứ Đồng Dù cũng đồng loạt câu vào yểm trợ. Mặt đất như đánh võng, bên trên là những đụn khói đen bốc lên kín cả một góc trời. Tiếp theo sau đợt oanh kích của phi pháo là hơn chục xe tăng và bộ binh Mỹ xuất hiện. Chúng la hét om sòm, đứa khom, đứa đứng lố nhố chạy phía sau tay lăm lăm súng tiến vào đội hình của đại đội 1 của Tiểu đoàn 7.
Chưa kịp nghĩ được gì thêm thì từ vị trí chỉ huy pháo hiệu của tiểu đoàn trưởng Cận đã vút lên không trung. Lệnh xuất kích.
Chỉ chờ có vậy, tôi và mọi người nhanh chóng bật lên khỏi công sự lao thẳng vào đội hình địch.
Bị đánh bất ngờ, địch không còn giữ được đội hình. Cả xe tăng và bộ binh Mỹ bắn như vãi đạn ra tứ phía. Tiếng súng hai bên cũng bắt đầu rộ lên không ngớt. Tiếng xung phong vang dậy, tiếng đạn chiu chíu, đan qua đan lại như mặt bàn cờ. Những quả đạn chống tăng như bắp chuối đỏ lừ thi nhau lao ra hướng vào những chiếc M.41 đang nháo nhào như những con bọ hung bị nhốt trong chảo lửa. Từ một góc trái đội hình bỗng tôi thấy một, rồi hai, ba chiếc tăng nữa, theo sau là một tốp lính Mỹ đang cố quay lại phản kích. Xoáy lại quả đạn cho chắc thêm, giương súng và bật thước ngắm lên. Tôi cố nín thở, bặm môi xiết cò. Một luồng lửa phóng thẳng vào chiếc M.41 nằm giữa đội hình. Sau ánh lửa xanh lè, chiếc xe khựng lại, rung lên, tiếp theo là tiếng nổ đến long óc. Cả khối thép bỗng chốc trở thành đống lửa khổng lồ. Bên cạnh là tiếng la ghê rợn của những tên Mỹ. Thừa thắng xốc tới, tôi và đơn vị lao vào đánh giáp lá cà với chúng. Cả trận địa mịt mù trong khói lửa. Bị đánh thọc sườn, trở tay không kịp cùng lúc bị diệt đến năm xe nên buộc số còn lại phải chạy tháo ra lộ. Đơn vị tiếp tục truy kích. Còn tôi sau khi bắn cháy chiếc tăng thì bị thương vào đầu. Vết thương khá nặng nên phải nằm lại ngay cạnh chiếc M.41 đang cháy nham nhở. Trong khi mê man tôi nghe như có tiếng ai đó gọi tên mình. Há miệng định kêu lên nhưng hai thái dương cứ đau nhói. Tôi cố sức trở mình sang một bên, căng mắt nhìn qua lớp khói mịt mờ bao quanh xem có còn ai không thì từ phía trước một bóng đen loạng choạng lao đến.
- Tám, Tám2 đó phải không?
Đúng là tiếng anh Mão, trung đội trưởng rồi.
Có lẽ trong đội hình truy kích địch ở phía trước của đơn vị thấy vắng tôi nên anh quay lại tìm và đã bị thương. Tôi như không còn tin vào mắt mình nữa, khắp ngực anh máu ra nhiều quá. Một lỗ thủng của loại đạn nhọn từ phía sau lưng xuyên ra trước, máu thấm ướt đầm. Hai chúng tôi ôm chặt lấy nhau mà chẳng biết làm gì hơn. Bông băng cứu thương thì đã hết. Áo quần loang lổ bê bết dính đầy cát bụi. Buông tôi ra anh móc trong túi đựng cơm đưa cho tôi gói lương khô và bi đông còn không đầy nửa nước. Chúng tôi uống mỗi người một hớp. Như được tăng thêm sinh lực, anh bảo: Súng, đạn đây nếu còn sống trở về thì giao cho đơn vị. Anh vòng tay ra sau vai cố tháo dây súng và băng đạn AK đưa cho tôi.
Khẩu súng vừa chuyền qua tay cho tôi thì cũng là lúc sức anh kiệt lắm rồi. Anh đã trút hơi thở cuối cùng ngay trên tay tôi. Mặc dù bị thương rất nặng trên đầu nhưng tôi vẫn cố sức lê từng bước nhọc nhằn giữa những khoảng đất đã bị cày xới còn đang bốc mùi khét lẹt của thuốc súng. Tôi cố định vị, nhắm hướng công sự bò về với mong muốn may ra gặp được du kích. Vừa bị thương lại phải mang hai khẩu súng và xác anh Mão đi theo nên tôi đã ngất đi lúc nào không hay. Sau này chỉ nghe kể rằng khi thu dọn chiến trường thì du kích đã phát hiện ra tôi và xác anh Mão nằm kẹp bên nhau. Riêng tôi thì du kích đã đưa về cứ để cấp cứu, nhưng rồi vào nửa đêm hôm sau thấy người khá hơn, tỉnh dậy tôi liền xin phép tìm về đơn vị giao lại hai khẩu súng cho anh Sinh là chính trị viên phó tiểu đoàn và sau đó trở lại thì được du kích đưa về trạm quân y ở Thanh An-Bến Cát. Qua hai tháng điều trị bệnh tôi đã lành và được về đơn vị cũ tiếp tục chiến đấu.
… Sau đợt 2 Mậu Thân3, chiến tranh ngày càng lan rộng, kẻ thù điên cuồng đánh phá khắp nơi. Cũng như toàn miền Nam, vùng Củ Chi bom đạn ngày càng trở nên ác liệt. Đơn vị tôi qua năm 1968 địa bàn tác chiến cũng đã trải dài xuống tận Tây Nam bộ vùng Cai Lậy, Mỹ Tho, Tiền Giang, Đức Hòa, Đức Huệ của tỉnh Long An.
Bốn mươi năm từ sau trận đánh ấy đến nay. Và 32 năm chiến tranh đã đi qua, không biết ai còn, ai mất và hiện nay cuộc sống ra sao.
Trưởng thành từ một người lính, hơn mười năm gắn bó với chiến trường, sau giải phóng tôi cũng đã mấy lần ra Hà Nội hội họp hoặc về phép thăm quê. Dù công việc có bận rộn đến mấy, nhưng tôi không quên về vùng Hà Nam, Vĩnh Phúc với mong muốn tìm gặp lại được người thân trong gia đình của anh Cơ, anh Mão để trao lại những kỷ niệm thiêng liêng mà các anh trước khi nhắm mắt đã gởi gắm cho tôi. Nhưng rồi lần nào cũng trở nên vô vọng. Bạn bè, đồng đội mỗi đứa một quê chẳng ai còn nhớ được gì, có người vì mưu sinh cuộc sống thì nay đã lập nghiệp tận Tây Nguyên, Bình Phước…
Lỗi hẹn với các anh, có những đêm tôi trằn trọc đến khó ngủ. Một mùa xuân nữa lại về. Từ trong sâu thẳm của lòng mình, ký ức ở một vùng ven ngày nào lại cứ hiện lên trong tôi như một kỷ niệm dù bi thương nhưng cũng rất tự hào.
HỮU MẠO
(Ghi theo lời kể của Thiếu tướng Trần Ngọc Thổ, Nguyên Tham mưu trưởng Trung đoàn 88)
1. Đợt 1 Tổng tấn công Mậu Thân từ ngày 31-1 đến ngày 28-3-1968.
2. Tên gọi đồng chí Trần Ngọc Thổ.
3. Đợt 2 từ ngày 5-5 đến 18-6-1968.