QĐND Online - Sự ra đời của những đồng bạc Cụ Hồ, sự lớn mạnh của nền tài chính cách mạng Việt Nam,… là thành quả lao động to lớn của cả tập thể trong thời kỳ gian khó. Ẩn sâu trong nỗ lực chung là những đóng góp thầm lặng nhưng lớn lao của gia đình ông Đỗ Đình Thiện.
Điểm in tiền tuyệt mật của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
Sau khi giành được độc lập, nước nhà gặp rất nhiều khó khăn đặc biệt là vấn đề tài chính. Để đáp ứng với yêu cầu mới, ngày 15-11-1945, theo chỉ thị của Bác Hồ, “Cơ quan Ấn loát” được thành lập với nhiệm vụ in những đồng tiền mới của Việt Nam. Ông Phạm Văn Đồng – Bộ trưởng Bộ Tài chính lúc đó được giao phụ trách việc in và phát hành tiền mới. Giúp việc cho đồng chí Phạm Văn Đồng có các đồng chí Phạm Quang Chúc, Nguyễn Văn Khoát, Trịnh Văn Đán…Đây là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn trong điều kiện nhà nước Việt Nam lúc đó. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật dùng cho việc sản xuất tiền như: xưởng in, máy in, giấy in chuyên dụng, mực in, mẫu tiền, vật liệu, cán bộ…đều không có. Trước tình hình đó, Ban lãnh đạo và tập thể cán bộ, công nhân viên thuộc Cơ quan Ấn loát đã tích cực tìm các biện pháp tháo gỡ những khó khăn vướng mắc.
 |
Đồn điền Chi Nê những năm 1946-1947. Ảnh gia đình cung cấp |
Trước CMT8, cả Đông Dương chỉ có 2 nhà máy in lớn là Nhà In Viễn Đông và Nhà in Tô-panh. Nhà in Viễn Đông có máy ốp-xét có thể in giấy bạc, nhưng lúc đó quân Tưởng đang chiếm đóng, nên ta không sử dụng được. Trong khi đó, nhiệm vụ mà Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh giao phó lại rất khẩn trương. “Cái khó ló cái khôn”, trong lúc bí bách nhất thì anh em trong Ban lãnh đạo Cơ quan Ấn loát đã tìm được lối ra. Đầu tiên, họ vận động được một số công nhân có lòng yêu nước, giỏi tay nghề ở nhà in Tô-panh giúp cách in thạch bản (in li-tô) bằng máy in mượn ở nhà In Quốc Hoa phố Hàng Bông. Sau đó, anh em còn đi tìm công nhân in thạch bản giỏi ở nhà in Nguyễn Ninh (chuyên in nhãn bánh khảo ở phố Hàng Than); họ đã bỏ nghề nhưng khi được thuyết phục, vận động làm việc cho Nhà nước, in các giấy bạc cho Cách mạng liền đồng ý ngay. Việc quan trọng đầu tiên là phải giải quyết vẽ mẫu tờ bạc, công việc này đòi hỏi phải rất khẩn trương. Vì vậy, đích thân Bộ trưởng Phạm Văn Đồng đã mời 4 họa sỹ nổi tiếng đương thời của Hà Nội là các ông Mai Văn Hiến, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Văn Khang và Nguyễn Huyến thiết kế mẫu các loại tiền cần in, với sự cộng tác của các họa sỹ khác, cùng một số thợ vẽ bản đồ thuộc Bộ tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Chỉ trong một thời gian ngắn, các mẫu tiền mệnh giá 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng và 100 đồng đã nhanh chóng được hoàn tất với chất lượng cao. Sau khi các mẫu vẽ chính thức được duyệt và in thử thành công. Chính phủ ta bắt đầu cho in số lượng lớn những đồng tiền Việt Nam đầu tiên để chuẩn bị phát hành. Lần in thử tờ bạc thành công với những mệnh giá 5, 10 và 20 đồng đã dấy lên niềm xúc động và tự hào đối với mọi người.
Vì chưa có nhà in riêng của Nhà nước, trong khi tình hình đòi hỏi tăng nhanh số lượng giấy bạc, cho nên Bộ Tài chính đã trưng dụng một số nhà in tư nhân như: Nhà in Nguyễn Ninh, Nhà in Việt Hưng (phố Cửa Nam), Ngô Tử Hạ (phố Lý Quốc Sư)… những nơi có máy in thạch bản để bí mật in nhiều hơn. Tuy vậy, nhu cầu ngày càng lớn, nếu cứ kéo dài tình trạng in tiền nhỏ, thì việc in bạc không kịp phục vụ nhu cầu phát hành ngay theo chủ trương của Chính phủ. Một lần nữa, gia đình ông Đỗ Đức Thiện lại giúp Chính phủ trong lúc khó khăn. Bộ Tài chính đã bàn với gia đình ông mua lại nhà in Tô-panh của Pháp rồi hiến cho Chính phủ (do phía Pháp không chịu bán nhà in này cho Chính phủ). Từ đó việc in tiền được thực hiện suốt cả ngày và đêm, Chính phủ đã có nhà in riêng, được tổ chức lại đàng hoàng. Để che mắt địch và bọn phản động tìm cách phá rối, nhà in được mang tên là Việt Nam Quốc gia Ấn thư cục.
Từ tháng 3 năm 1946, quân Tưởng và Pháp liên tục gây hấn, khiêu khích tìm mọi cách phá hoại cơ sở cách mạng của ta, nguy cơ nhà in tiền bị lộ là rất lớn. Vì vậy, đồng chí Lê Văn Hiến, lúc này là Bộ trưởng Tài Chính ra lệnh sơ tán một bộ phận của nhà in lên xã Cố Nghĩa, huyện Lạc Thủy, Hòa Bình. Bộ phận nhà máy in này đóng tại đồn điền Chi Nê của gia đình ông Đỗ Đình Thiện. Khi chọn vị trí này, Bộ tư lệnh chiến khu II đã khảo sát khá kỹ và được Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng ý. Lúc bấy giờ đồn điền Chi Nê có vị trí chiến lược, có thể xuyên tuyến đường 21 (nay là chặng đầu của đường Hồ Chí Minh đi qua) vào Thanh Hóa; hoặc ngược lên Tây Bắc. Về kinh tế, đồn điền lúc đó trù phú và dồi dào lương thực, thực phẩm. Theo ông Bảng, là một trong những người quản lý đồn điền lúc đó, cà phê của đồn điền tươi tốt bạt ngàn, mùa nào cũng bội thu, 3 kho thóc lớn đầy ắp. Đồn điền còn có tới 2.000 con bò sữa, 2.000 con dê…
Dưới sự chỉ đạo của Bộ trưởng Lê Văn Hiến và ông Phạm Quang Chúc – Giám đốc Cơ quan Ấn loát, anh chị em công nhân đã nhanh chóng tháo dỡ, vận chuyển máy móc, thiết bị đến địa điểm sơ tán trong đồn điền, dưới rừng cây um tùm, mênh mông với chiều dài 13km, rộng 9km, rất thích hợp với hoàn cảnh chiến tranh. Chỉ sau 1 thời gian ngắn lắp đặt, thu xếp, nhà máy tại Chi Nê bắt đầu hoạt động bình thường, tiếp tục in giấy bạc và nơi đây trở thành địa điểm in tiền cách mạng thứ hai của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Tháng 11-1946, tình hình căng thẳng hơn, quân Pháp thay quân Tưởng đóng từ vĩ tuyến 16 trở ra, lợi dụng việc chiếm đóng để thực hiện mưu đồ cai trị Việt Nam một lần nữa. Để bảo vệ cho việc in tiền, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra lệnh tháo dỡ, vận chuyển toàn bộ máy móc còn lại ở Hà Nội lên Cố Nghĩa – Chi Nê. Một lần nữa gia đình ông bà Đỗ Đình Thiện lại đón đoàn cán bộ, công nhân viên của nhà máy in tiền về ở và làm việc tại đồn điền Chi Nê của mình. Tại đây, gia đình ông đã dành một địa điểm thích hợp, đồng thời cho mượn nhà xưởng, máy điện, nước của đồn điền Chi Nê cùng một số kho tàng để đặt nhà máy in. Được sự cưu mang của gia đình ông Đỗ Đình Thiện, cán bộ, công nhân nhà máy in tiền sớm ổn định được cuộc sống và tổ chức, nhanh chóng tiếp tục sản xuất, in tiền phục vụ công cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồn điền Chi Nê trở thành địa điểm tuyệt mật đặt Nhà máy in tiền thứ hai của Việt Nam. Sự tồn tại và hoạt động của nhà máy có liên quan đến sự hưng vong của nước nhà.
Nơi ra đời tờ bạc 100 đồng – đồng bạc “con trâu xanh”
Tại Chi Nê, nhà máy in tiền tiếp tục cho ra đời những đồng tiền biểu trưng cho sức mạnh của nền tài chính Việt Nam, đặc biệt tờ giấy bạc có mệnh giá lớn nhất lúc bấy giờ được ra đời tại đây là tờ 100 đồng Việt Nam, còn được gọi là tờ bạc “con trâu xanh” (vì trên tờ bạc có in hình con trâu màu xanh) kịp thời phục vụ cho nhu cầu kháng chiến.
 |
Tờ bạc 100 đồng-đồng bạc "con trâu xanh". Ảnh internet |
Sự ra đời của tờ 100 đồng là của cả một quá trình lao động và sáng tạo trí óc. Khâu khó nhất là vẽ tiền, đòi hỏi sự chính xác cao, xong ai cũng muốn trong tác phẩm đó phải có cái hồn Việt mới được. Có ba người được phân công vẽ tờ 100 đồng, đó là kiến trúc sư Lương Văn Tuất, ông Đào Văn Trung, cán bộ cũ ở Sở Địa đồ chuyên vẽ diềm trang trí và kẻ chữ, họa sĩ Nguyễn Huyến vẽ hình giữa. Hình mặt trước là con trâu cày, mặt sau là hình người nông dân vác cuốc và người thợ nề cầm cái bay, tượng trưng nông nghiệp và xây dựng. Mẫu tờ bạc này phải to gấp ba lần kích thước thật. Ba màu xanh, vàng, nâu là chủ đạo. Tâm điểm của đồng bạc chính là con trâu. Là họa sĩ phong cảnh, vẽ con trâu là việc quá quen thuộc, thậm chí rất đơn giản đối với Nguyễn Huyến. Tuy vậy, ở tác phẩm này ông vẫn muốn nó thật có thần, thật thanh thoát và sống động. Chính vì vậy ông Huyến đã phải chạy ra cánh đồng làng Láng (nay là quận Cầu Giấy) để quan sát thật kỹ một con trâu thật đang gặm cỏ. Khi tờ giấy bạc 100 đồng được lưu hành, có lẽ nó cũng truyền tải được cái tâm người vẽ nên người dân lúc ấy gọi đồng bạc đó là “con trâu xanh”. Nếu lấy kính lúp soi kỹ thì những cái xoáy lông trâu hiện lên ở đầu và mình con trâu rất tự nhiên và sống động… Khi vẽ gần xong, mấy ông bàn nhau đánh dấu bằng một chấm nhỏ góc phải và cùng màu với tờ bạc để có thể phân biệt tiền thật, tiền giả. Sau này ông Huyến cho biết đó chỉ là một dấu chấm ngây thơ. Nhưng ông cũng rất tự hào bởi câu chuyện đó đánh dấu tấm lòng chân thành của mỗi người Việt Nam với đồng tiền độc lập bấy giờ.
Sau khi tờ 100 đồng được lưu hành, có rất nhiều câu chuyện thú vị liên quan đến nó. Có câu chuyện chị em bà Mỹ, dân ở thị xã Hà Đông, Hà Tây mang 3 vuông vải đi chợ bán kiếm tiền về làm giỗ, hồi lâu có người đàn ông trung niên đạp xe đến xem vải. Xem xong ông rút ra một tờ giấy bạc xanh nhìn rất mới lạ và nói: “Tôi mua vải cho cơ quan của Chính phủ cách mạng. Đây là tiền của chính phủ mới, tiền của Cụ Hồ, tôi không biết đắt rẻ thế nào nhưng cứ trả chị 100 đồng…”. Hai chị em nghe nói đến Chính phủ Cụ Hồ đã mừng quýnh; lại được nhìn thấy đồng tiền mới màu xanh có in dòng chữ quốc ngữ Việt Nam Dân chủ cộng hòa và ảnh Bác Hồ thì xúc động vô cùng.
Họ ríu rít hỏi chuyện người mua hàng thì cả chợ đổ xô lại giành nhau ghé mắt xem kỳ được đồng tiền mới của Chính phủ. Bán vải xong hai bà phải mua đồ làm giỗ. Vì không muốn trả đồng tiền Cụ Hồ nên cả hai không biết làm thế nào. Cuối cùng họ dẫn nhau về nhà với thúng, làn không. Đám giỗ hôm ấy không có cỗ bàn nhưng cả họ, cả làng bà con sum họp vui mừng như có hội vì họ được nhìn tận mắt tờ giấy bạc Cụ Hồ. Tờ giấy bạc 100 đồng đó được mẹ bà Mỹ bày trên bàn thờ như muốn thưa với tổ tiên rằng người Việt Nam ta đã có đồng tiền độc lập.
 |
Lễ công nhận đồn điền Chi Nê là di tích lịch sử |
Vào thời điểm cuối năm 1946 đầu năm 1947, máy bay địch thường xuyên quần đảo, thám thính trên bầu trời Chi Nê và các địa phương lân cận, nhà máy in tiền phải hoạt động theo hướng quân sự hóa, có hầm hào trú ẩn đầy đủ, an toàn, các phân xưởng sản xuất và nguyên vật liệu, kho cất giữ tiền phải bố trí trong nhiều lán trại, kể cả trong trường hợp gửi ở nhà dân nhưng phải được chính quyền địa phương đảm bảo độ tin cậy. Công nhân làm việc từ 4 giờ chiều hôm trước đến 3 giờ chiều hôm sau. Đánh hơi thấy hoạt động của đồn điền Chi Nê, ngày 22-2-1947, máy bay Pháp oanh tạc nơi đây dữ dội. Nhưng trước đó, nghe lời Bác Hồ dặn khi về thăm đồn điền, lãnh đạo nhà máy đã cho sơ tán máy in tiền để trong một hang đá nên vẫn được an toàn. Máy in chỉ ngừng sản xuất 1 ngày rồi lại tiếp tục hoạt động trở lại. Vì bị lộ, nên đến tháng 3-1947, toàn bộ nhà máy in tiền được chuyển lên bến Tràng Đà – Tuyên Quang. Ít lâu sau trước tình hình cuộc chiến tranh ngày càng mở rộng, địch cũng nhiều lần tấn công uy hiếp vùng kháng chiến của quân ta, nhận thấy đóng ở Tuyên Quang không an toàn cho nên theo lệnh của Trung ương Đảng, Chính phủ, Bộ Tài chính lại cho di chuyển đại bộ phận nhà máy vào núi rừng Việt Bắc, đóng tại Bản Thi. Đến đây nhà máy đi vào củng cố, ổn định các mặt và được mang tên mới là
Cơ quan Ấn loát đặc biệt Trung ương thuộc Bộ Tài chính.
Như vậy trong một năm với biết bao khó khăn khốc liệt của cuộc chiến, đồn điền Chi Nê trở thành nơi bảo đảm an toàn tuyệt đối cho nhà máy in tiền đi vào hoạt động ổn định, tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho việc in ra những đồng tiền phục vụ cách mạng và là cơ sở để cho đồng tiền 100 đồng - mệnh giá lớn nhất lúc đó ra đời, thể hiện sức mạnh của nền tài chính nước nhà trước kẻ thù xâm lược. Trong thành công này, những đóng góp của gia đình ông Đỗ Đình Thiện rất lớn và đáng trân trọng. Sau khi nhà máy in tiền sơ tán, ông bà Thiện cũng khoác ba lô trèo đèo, lội suối cùng anh em công nhân đi xây dựng nhà máy cơ khí đầu tiên tại chiến khu Việt Bắc. Sau này, ông bà còn ủng hộ một nửa cổ phần để thành lập Việt Nam công thương Ngân hàng (tiền thân của Ngân hàng quốc gia Việt Nam).
Nguyễn Đức Tiến (còn nữa)