 |
Anh Nguyễn Đức Hòe (bên trái) và một đồng đội cùng đào hầm vượt ngục năm xưa. |
Nói đến tù binh Phú Quốc, không thể không nói đến “kỳ tích” đào hầm vượt ngục. Đặc biệt, cuộc vượt ngục ở trại giam A4 đêm 23, rạng sáng ngày 24-12-1971 đã đạt con số “kỷ lục”: 41 tù binh thoát ngục. Sự thật thế nào? 37 năm sau cuộc vượt ngục đặc biệt ấy, phóng viên báo Quân đội nhân dân đã tìm được một trong những “kiến trúc sư” của đường hầm này...
Ban liên lạc tù binh vượt ngục Phú Quốc cung cấp cho tôi địa chỉ anh Nguyễn Đức Hòe, người phụ trách đào một trong những đường hầm huyền thoại, hiện là nhân viên bảo vệ của Trường đại học Cần Thơ. Tới nơi hỏi thăm, người ta bảo ông Hòe đã nghỉ hưu mấy năm nay, nghe đâu giờ lên Thành phố Hồ Chí Minh làm ăn. Lần hồi mãi mới ra số điện thoại, tôi khấp khởi bấm máy thì bên kia, anh Hòe nói giọng mệt mỏi:
- Đúng là tui đào hầm! Nhưng chuyện cũ quá rồi, bao năm mải làm ăn, chắc không nhớ nhiều đâu!
- Thế anh giờ ở đâu?
- Chú em rảnh thì lên Bình Dương, ghé quán cơm bình dân anh mới mở, ta vừa lai rai vừa nói chuyện…
... Năm 1968, đơn vị tôi hành quân đến Buôn Ma Thuột tham gia Mậu Thân. Ngày đầu tiên đánh vào sân bay. Sang ngày thứ hai, thứ ba quân địch đánh phản lại kinh khủng và chúng tôi bị kẹt trong sân bay không ra được và cầm cự với quân địch cách một con đường. Đến ngày thứ tư, bên cạnh tôi chỉ còn lại 4 người nữa, vừa mệt, vừa đói mấy ngày mà nhấm nháp chỉ có ít lương khô và nước. Một lúc sau thì một đồng chí bị hi sinh, thấy vậy ai cũng xung phong ở lại giữ chân giặc cho đồng đội rút, thế nhưng không ai chịu là người đi cả. Thêm một lúc nữa, tôi bị một miểng đạn văng trúng ngực. Anh em liền rút miểng đạn ra và băng bó vết thương cho tôi. Biết mình khó có thể thoát được, tôi xung phong ở lại, bảo mọi người rút lui và gom hết số đạn còn lại bắn chặn đường địch. Thời gian trôi qua, số đạn cũng đã hết, tôi cầm trái lựu đạn cuối cùng tử thủ với địch. Khi thấy bọn Mỹ vẩy súng kêu Uê… Uê…., tôi chỉ còn vừa đủ sức ném trái lựu đạn và ngất đi. Sau mới biết, lựu đạn bị kẹt chốt nên không nổ. Sau đó chúng đã đưa tôi đi rất nhiều nhà giam và tháng 4-1968, chúng đưa tôi ra nhốt ở Nhà tù Phú Quốc. Còn các đồng đội nghĩ rằng tôi đã hy sinh và báo tử về cho gia đình”.
Huyền thoại đào hầm
... Trại giam chúng tôi ở vị trí xa nhất với đoạn hào giới hạn của nhà tù. Thêm vào đó nó lại nằm ngay cạnh sân điểm danh và bốt gác của địch. “Cái khó ló cái… hay”, sau khi bàn bạc, mọi người thấy rằng: Ở vị trí này, địch sẽ chủ quan vì cho rằng chúng ta ở ngay trước mắt chúng thì sẽ không dám làm gì.
- Không tấc sắt, lấy gì mà đào. Nền trại giam chúng lại đổ xi măng? Nhiều ý kiến phản đối. Ừ! Cũng khó thật! Ngày ngày đi làm về, chúng lục soát từng tí, một cái đinh, một đoạn gỗ cứng mang theo là ăn đòn liền. Thế mà anh em vẫn tìm ra “phương tiện”. Thứ chúng tôi nhắm đến để làm thuổng là quai những cái cà mèn đựng cơm. Nhưng muốn lấy quai phải cưa. Mà cưa ở đâu ra? Đơn giản, mấy đoạn dây thép gai đi làm tạp dịch giấu mang vô đập bẹp, chế thành “cưa”, ngày ngày tỉ mẩn “cọ”, mài vào cà mèn. Cả ngày mới cắt đứt được một quai. Quai ấy, lại đập dập ra, uốn thành hình cái thuổng tí hon chỉ chừng hai ngón tay. Thế mà, nó đã giúp đào bới hàng trăm mét khối đất sau này. May mà đất ở Phú Quốc là đất sét pha cát, chứ đá ong như Bắc Giang quê tôi, chắc đành bó tay… Nền nhà lao xi măng khó nhưng lại hay, vô hình trung tạo ra cái miệng hầm chắc chắn, không bị sụt lở. Khó nhất chỉ ở khâu mở miệng hầm. Anh em đào, cắt rồi ngày ngày trét cơm khô pha đất xoá kín mọi dấu vết.
Đào đất đã khó, đổ đất mới gian nan, phải đào một hố sâu trong đường hầm rồi ém đất vào đó. Sau mang đổ bằng nhiều cách: Mỗi anh em cho một ít vào túi áo, túi quần hay cho vào thùng rác. Sau mỗi bữa ăn, mọi người cho đất vào đáy thùng gánh chén, đũa đi rửa và đổ đất xuống giếng nước. Khi nào đất cát trong giếng đầy thì báo là do mưa trôi đất xuống lấp giếng và đề nghị nạo vét. Sướng nhất là vào lúc trời mưa. Thứ nhất là do địch không đi kiểm tra, thứ hai là giải quyết được khâu tiêu huỷ đất cát. Gặp hôm mưa, chúng tôi cứ thoải mái đào ngay miệng đường hầm, thành một cái hố to, hất đất cát ra ngoài cho mưa xối đi. Thế là những ngày sau, đào được bao nhiêu đất cát thì lấy lèn vào chỗ hôm mưa đào, khả năng bị lộ nhờ vậy giảm đi rất nhiều.
Lực lượng đào hầm là vấn đề tối quan trọng, đâu phải ai cũng có thể tham gia. Lơ ngơ gặp mấy thằng chỉ điểm nó đợi đào xong hốt cả “ổ” thì… Chúng tôi cử ra 15 anh em khỏe nhất, can đảm nhất và cũng tin cậy nhất. Số này phải cực nhọc đào hầm nhưng nếu bị lộ cũng phải nhận trách nhiệm, coi như một “đội cảm tử”. Tôi được giao phụ trách chung, kiêm “kiến trúc sư”. Tôi phân công 15 người ra 3 kíp, mỗi kíp 5 người thay nhau đào.
Sau khi xin ý kiến và được sự đồng ý của tổ chức Đảng trong nhà tù, chúng tôi bắt tay vào việc. Công việc được bắt đầu vào những ngày cuối tháng 5, đầu tháng 6-1971, những ngày này là cao điểm của mùa mưa nên dễ dàng cho việc vận chuyển đất cát.
- Sao làm gì các anh cũng phải “xin ý kiến Đảng ủy”? Rầy rà vậy?
- Thì vượt ngục kiểu đào hầm, đông người tham gia, không có cấp ủy lãnh đạo, lo bảo mật, lo xử lý bọn chỉ điểm sẽ chết như chơi. Mỗi khi đào là cả một cuộc “hợp đồng tác chiến” chứ có phải chơi đâu? Anh em đào sau điểm danh sáng cho đến cơm trưa và chiều từ sau điểm danh xế đến điểm danh chiều tối. Lúc đào, phải có người cầm chân, canh chừng giám thị.
Cuộc đào thoát chấn động đêm Nô-en
... Đường hầm mỗi lúc một dài ra. Để nó đi thẳng đúng hướng, chúng tôi phải sử dụng một sợi dây và 3 chiếc đinh, áp dụng quy luật của hình học đó là sử dụng 3 điểm làm thành một đường thẳng. Trong đó, 2 điểm được cố định và một điểm cuối cùng được cuốn chiếu từ từ. Khi đường hầm đã thành hình, dùng bao tải (làm từ các sợi đay mà bọn địch dùng để vận chuyển gạo), tách từng sợi đay rồi bện vào với nhau làm thành sợi dây chắc chắn, xin đồng đội ở nhà bếp lấy trộm những thùng đựng đồ làm vật chuyển đất cát. Cứ khoảng 10m đường hầm là mọi người lại dùng que đục lên trên một lỗ thông hơi. Nhưng nhiều khi do không khí ngột ngạt, có người đã bị bất tỉnh trong hầm. Lúc đó, mọi người lại dùng dây kéo ra và dùng áo quạt cho tỉnh lại.
- Trong lúc đào hầm có sự cố gì xảy ra không? Tôi hỏi cắt ngang câu chuyện.
- Có chứ! Rất nhiều. Có một lần chúng tôi làm ống thông hơi thì thấy que thông hơi tự dưng hình như bị cái gì đẩy mạnh xuống. Công việc lại phải dừng lại. Mấy ngày sau mới biết, do tránh một tảng đá trên đường đào hầm, chúng tôi đã vô tình đào chệch hướng và đường hầm chạy thẳng ra sân điểm danh của quân địch. Hôm đó, khi que thông hơi thò lên, cũng là lúc đồng đội mình làm bếp nhìn thấy bèn nhanh chóng chạy ra lấy chân đạp mạnh vào đầu que. Nhờ vậy, địch mới không phát hiện. Lại có lần, tôi đang chui nhủi trong hầm thì chúng ập vào điểm danh. Bất ngờ điểm danh giữa đêm khuya là một cách thâm độc để bắt tù binh đào hầm. Tôi ở sâu quá, anh em không kịp kéo ra, đành phải đậy nắp hầm lại. May sao có anh nhanh trí lấy chăn xếp thành cái hình người đang nằm ở chỗ tôi. Một tên quân cảnh lại gần lia đèn pin:
- Thằng nào ốm đây! Mở ra coi?
Tui nằm trong hầm rụng rời chân tay? Tiêu rồi… Có tiếng trả lời:
-Thưa trung sĩ! Nó bị thương hàn hay kiết lỵ gì đó. Đi ỉa lụp bụp suốt đêm thúi quá…- có tiếng trả lời.
Nghe thấy “kiết lỵ”, “thương hàn”, tên quân cảnh lủi nhanh. Thế là thoát…
... Cứ thế, suốt 6 tháng trời, một đường hầm dài hơn 100m (chiều dài đường hầm địch đo thẳng trên mặt đất dài 71m) ở dưới độ sâu từ 2,5 đến 3m (có nơi sâu xuống gần 5m để vòng xuống qua hào bao sâu 3m nối liền từ phòng giam A4 ra tới giao thông hào cuối cùng của nhà tù Phú Quốc) đã hình thành. Cửa ra của hầm trổ ngay cạnh lầu gác của quân cảnh, chỉ cách có 8 mét.
Đêm Nô-en 24-12-1971, lợi dụng đúng lúc bọn địch đang vui vẻ ở nhà thờ, anh em đã trổ hầm ra đi, chia làm 3 toán, từ 19 giờ đến 2 giờ sáng. Đêm đó, một ca trực của quân cảnh không vào điểm danh, một ca khác chỉ điểm danh vòng ngoài nên anh em đi rất thuận. Đến 2 giờ sáng, một tên quân cảnh đi ngoài phát hiện tiếng sột soạt ở hướng cửa hầm, chúng kêu một tên nữa hỏi. Vừa đó, lại có tiếng tuôn cỏ tranh chạy. Nhưng chúng nghĩ… lợn rừng chạy nên mặc kệ. Một lúc sau, có xe zeép tuần tiễu đến, chúng mới vào điểm danh thì 41 anh em đã “không cánh mà bay”. Hôm sau, lùng sục tìm ra đường hầm, địch còn thấy một đường dây nhỏ dài hơn 200 mét từ cửa hầm quẹo về hướng tây ra bãi cỏ tranh rừng. Như vậy, anh em đào hầm đã rất chu đáo để anh em ra sau không bị lạc vào hướng địch.
Chỉ một ngày sau, đài BBC đã đưa tin: “Lại hơn 40 tù binh cộng sản tại nhà lao Phú Quốc vượt thoát bằng đường hầm như kiểu địa đạo Điện Biên Phủ, bất chấp tất cả những phương tiện canh phòng hiện đại do người Mỹ cung cấp. Những tù binh khoét đường hầm này chắc chắn đã tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ đào hầm A1 năm 1954…”.
Tôi kể cùng anh Hòe thông tin ấy, anh phá lên cười:
- Tất cả anh em tù binh Phú Quốc, làm quái gì có ai kinh qua Điện Biên Phủ như họ nghĩ!!!
... Mười ngày băng rừng, chúng tôi đã về tới huyện đội Phú Quốc. Nhưng đếm lại số anh em, chỉ còn vẻn vẹn 25 người. Mười bảy người đã hi sinh dọc đường về cứ. Nhiều người đến hôm nay vẫn chưa tìm thấy hài cốt. Các anh đã nằm lại cùng núi rừng Phú Quốc…
“Cơm áo luôn không đùa với tất cả mọi người, kể cả với những người một thời vào sinh ra tử. Anh dũng cảm, tài tình trong thời chiến nhưng ngày đó, ranh giới địch - ta còn rõ ràng. Chứ thời bình…” - hỏi mãi, anh Hòe mới kể tôi nghe quãng đời còn lại sau những năm tháng Cây Dừa. Hòa bình, về quê mới hay tin vợ đã đi bước nữa. Hòe lủi thủi đưa các con vào Cần Thơ lập nghiệp. Anh đi học, rồi làm giảng viên khoa trồng trọt hẳn hoi. “Nhưng bệnh tật dữ quá, gia đình khó khăn, tui xin xuống làm nhân viên bảo vệ. Từ làm thầy, chuyển qua cái anh gác cổng, nghĩ cũng buồn. Được vài năm tui xin nghỉ hẳn, giờ đi bán cơm để… kiếm cơm”.
Trong lịch sử nhà lao Cây Dừa, xảy ra 4 lần tù binh vượt ngục bằng đường hầm thành công nhưng thực tế đã có hàng chục đường hầm được đào. Chỉ riêng trong năm 1971, địch đã phát hiện được 5 đường hầm ở Phú Quốc. Cụ thể: 2-1-1971 phát hiện đường hầm ở D5, 15-1-1971 phát hiện đường hầm 25m ở D7, 17-1 phát hiện đường hầm 15m ở A5, 19-1 phát hiện đường hầm 30 mét ở D4 và một đường hầm 20m ở B5...
Bài, ảnh: NGUYỄN VĂN MINH và NGUYỄN VIỆT HÀ
(Kỳ 8: Phía sau khúc bi tráng)