(Tiếp theo kỳ trước)
 |
Anh Vương Chí Dũng trên tàu trở về thăm nhà lao Cây Dừa. |
Câu chuyện “
Những người hùng ở nhà lao Cây Dừa” mà chúng tôi giới thiệu cùng bạn đọc thực chất là chuyện về những chuyến vượt ngục thông minh, táo bạo đến ly kỳ của tù binh Phú Quốc. Hơn 40 cuộc vượt ngục là 40 phương án vượt khác nhau, nhưng có nhiều cuộc vượt ngục chung một kiểu cách.
17 giờ ngày 31-8-1970, một cuộc vượt ngục quy mô lớn đã xảy ra gây rung động cả Lầu Năm Góc. 40 tù binh ở phân khu C8 sau khi được giao đi làm tạp dịch về đến Miếu Cô Sáu đã bất ngờ đánh lính, cướp súng, khống chế tài xế rồi bỏ chạy. Ba ngày sau, đài BBC đưa tin: “Hàng chục tù binh cộng sản Việt Nam đã táo bạo giật súng đối phương trốn chạy giữa ban ngày. Sự việc này buộc người ta phải xem xét tới trách nhiệm và bổn phận của các quan chức hữu trách liên đới tới nhà tù Phú Quốc”. Sự thật thì sau vụ vượt ngục tập thể táo bạo này, một đại tá phụ trách nhà tù Phú Quốc đã bị cách chức và một chuẩn tướng về thay. Trong vụ này, mặc dù địch nổ súng yểm trợ, cho trực thăng càn quét nhưng vẫn có 27 tù binh trốn thoát về với cách mạng, 13 đồng chí hi sinh hoặc bị bắt. Gần 40 năm trôi qua, tôi đi tìm những người tham gia vụ vượt ngục “hoành tráng” này nhưng không được.
Tuy nhiên, tôi cũng được an ủi phần nào khi tìm được một nhân chứng của một vụ “Đánh quân cảnh vượt ngục” khác - diễn ra vào một ngày có 4 số 9: 9-9-1969. Đó là đồng chí Vương Chí Dũng, Phó trưởng Ban liên lạc tù binh vượt Phú Quốc ngục tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Phương án “Một đánh một”
“Ngày ấy, tôi ở phân khu D6 - anh Vương Chí Dũng hồi tưởng lại. Đến thời điểm tháng 9-1969, cũng đã lác đác có một số cuộc vượt ngục, nhưng chưa ai dám nghĩ đến chuyện đánh quân cảnh. Một trong những việc tạp dịch mà chúng thường giao cho tù nhân là vô rừng lấy củi. Ban đầu mươi người đi lấy củi chúng chỉ cho 1-2 tên lính đi áp giải, cứ ngỡ anh em chẳng dám trốn. Nhưng chúng không ngờ, đám tù binh còm nhom, èo uột thế có một ngày bỗng vùng dậy nện chúng, cướp súng. Ngày càng có nhiều cuộc đánh quân cảnh trốn nên càng về sau, chúng càng tăng lính áp tải tù binh đi làm. Ban đầu một kèm mười, dần thành một kèm năm, tù binh vẫn trốn. Một kèm ba, vẫn trốn! Đến thời điểm tôi ở D6, chúng bố trí “một kèm hai”. Nhưng rồi đi riết, chúng tôi cũng tìm ra kẽ hở của nó. Thường lúc chiều muộn về, mình mệt nhưng nó cũng mệt, có phần “chểnh mảng” hơn. Vượt ngục cũng như chiến đấu, địch luôn ở thế mạnh hơn ta, chỉ có thọc sâu vào điểm yếu của nó mới mong giành chiến thắng. Chúng tôi âm thầm lên phương án. Thông thường, mỗi lần chúng cho ra lấy củi 12-14 người, có 6-7 tên quân cảnh đi kèm. Vô rừng, “đội hình” thường bố trí: 1-2 quân cảnh ở tại chỗ để coi 4 người xếp củi. 5-6 thằng còn lại áp tải 10 người gom củi về. Khoảng cách giữa các nhóm kiếm củi thường cách nhau chừng 40-50 mét. Nếu mình tìm cách dãn ra, sẽ dễ bề “hành động” hơn. Chúng tôi bàn bạc, tính toán lựa chọn được 8 anh em tham gia “phi vụ”. Phương án chia làm 4 tổ, tổ nào thuận lợi nhất sẽ diệt quân cảnh, cướp súng rồi quay ra hỗ trợ cho tổ thứ 2, thứ 3. Khi bàn bạc phương án, chỉ 50% anh em đồng ý vì nó mạo hiểm quá, gần như phải “một đánh một”. Tôi được giao phụ trách chung, báo cáo với anh Tám Thạch, bí thư phân khu, anh đồng ý.
Ngày vàng “bốn số chín”
Anh Dũng vẫn nhớ như in hôm đó là ngày 9-9-1969. Thật may, bữa ấy có 14 người đi lấy củi nhưng địch chỉ bố trí 6 tên quân cảnh. Vào rừng, anh Dũng và anh Tiến được giao đi chặt cây. Một bó, hai bó củi đã đầy mà vẫn chưa tìm được cơ hội hành động. Lúc này đã sắp hết giờ, tên quân cảnh cũng ra chừng sốt ruột, giục hai anh làm mau. Đang bó bó củi thứ 3, Dũng bỗng siết mạnh dây. “Phựt!”, anh cố tình làm dây đứt:
- Thưa trung sĩ! Dây đứt rồi. Cho tôi vô kiếm dây khác?
- Mẹ kiếp! Làm ăn gì ẩu đoảng vậy mày, thôi vô kiếm nhanh lên!
Tên quân cảnh hất hàm ra lệnh. Dũng chạy vụt khỏi chỗ. Gã quân cảnh lúng túng, vội lia mắt nhìn theo anh ra chiều cảnh giác. “Bốp!”, đúng lúc gã đang mải theo dõi Dũng, Tiến cầm cây búa nện thẳng vào đầu y. Nhưng có lẽ quá hồi hộp, cú đánh của anh không đủ mạnh, tên địch rớt nón, hét lên. Nhanh như cắt, Dũng chạy trở lại, giật khẩu súng trong tay hắn rồi bồi cho một báng súng. Tiến cũng bình tĩnh, nện thêm cho gã một đòn nữa. Tên quân cảnh gục xuống. Tuy nhiên, tiếng la của tên quân cảnh ban nãy đã làm những tên ở gần đó nghe
Ai biết thông tin về số anh em vượt ngục còn sống trong cả nước, xin liên hệ: Vương Chí Dũng, Phó ban thường trực Ban liên lạc tù binh Phú Quốc vượt ngục: 352, Hùng Vương, P.15, Q.5, TP Hồ Chí Minh; ĐT: 088.554974-0903.392.467, hoặc Báo Quân đội nhân dân, số 7-Phan Đình Phùng, Hà Nội. ĐT: 098.322.55.76 |
thấy, chúng uỳnh uỵch chạy lại. Dũng, Tiến chỉ kịp cắm cổ chạy vào rừng, bỏ lại sau lưng là tiếng la ó. Dăm phút sau, một tràng AR15 vang lên gấp gáp kèm theo tiếng hét. Ngực Dũng đau nhói bởi tràng đạn báo cho anh biết, địch vừa bắn trả thù, sát hại đồng đội mình. Mãi sau này hòa bình, anh Nguyễn Hoàng Vân cùng toán kiếm củi với Dũng ngày ấy kể lại: Tên quân cảnh bị đánh chỉ ngất đi, không chết. Nhưng đồng bọn của hắn thấy thế nổi điên. Một thằng lên đạn khẩu AR15 đánh “
roạt”, quát “
tao lia chết hết mẹ chúng mày”. May mà một tên ngăn kịp, nên hắn mới chỉ giết chết một tù binh.
Cả buổi chiều hôm ấy, trực thăng quần đảo, vãi đạn xuống khu rừng. Nhưng Dũng và Tiến đã kịp lẩn trốn. Gặp nhau ở cây đa sau đồi 37, đêm ấy các anh lần ra miếu Cá Voi thì đã thấy bóng địch ngồi phục kích, cả hai đành lộn vô rừng. Sáng ra, họ vội vàng leo lên núi. Lại chạm trán địch đi lùng nên đành quay lại. Lúc này, Tiến bị cây đâm thủng chân sưng vù mà không có gì băng. Tìm được một cái miếu, Dũng khấn thần linh… thông cảm rồi xin tạm cờ miếu, xé lấy vải làm áo che mưa và lấy đồ băng cho Tiến. (Sau này, khi đã tìm được cơ sở, chỉ riêng nhặt gai ở chân, họ đã mất gần một ngày, với hơn 100 chiếc ở hai bàn chân).
Sang ngày thứ ba, họ đang dìu nhau đi trong rừng thì gặp một đàn bò. Dũng mừng lắm: Có bò là có dân. Chỉ có dân mới nuôi bò chứ bọn địch đâu có tăng gia sản xuất gì? Anh lập luận: Cứ đi theo đàn bò, tối chúng về chuồng là mình tới được nhà dân, tới được vùng cách mạng. Nhưng anh đã nhầm! Bò ở Phú Quốc đâu giống bò xã Tân Khánh, huyện Tân Uyên (Bình Dương) quê anh. Là học sinh tham gia cách mạng từ năm 14 tuổi, 18 tuổi vào bộ đội quân báo tỉnh, rồi bị bắt đầu năm 1969 (sau đợt 3 của Mậu Thân 1968), anh đâu có thời gian làm lụng để am hiểu nhiều về nông nghiệp. Đàn bò ở Phú Quốc do dân thả vô rừng nhưng chúng đi ăn theo kiểu hoang dã. Theo hoài cả ngày, vẫn thấy nó ở vô rừng. Ngày hôm sau, nó lại quay về chỗ cũ. Như vậy, các anh đã mất toi 2 ngày vì theo… bò.
Bỏ bò, tự tìm đường. Đến ngày thứ sáu, họ gặp một con lộ. Mừng quá, hai anh em ém trong gốc cây một lát thì thấy có người đàn ông đi tới. Vừa mừng, vừa sợ, chẳng biết địch hay ta. Không thấy người này mặc đồ lính thì chắc không phải ngụy, nhưng cũng có thể là gián điệp vì gián điệp cũng mặc như dân thường. Họ bám theo người đàn ông chừng 1km thì thấy ông ta tới một ngôi nhà. Bây giờ tính sao đây? Cuối cùng, họ chọn phương án “liều”: Tiến sẽ vô nhà trước, Dũng nấp ở gốc cây. Nếu là “địch” thì sẽ nổ súng giải cứu. Tiến rời vị trí, run run bước vào ngôi nhà. Người đàn ông nhìn thấy anh vội vã chạy ra xởi lởi:
- Ồ! Ảnh mới ở dưới lên này tụi bay!
Nghe cụm từ “ở dưới lên”, Dũng mừng lắm, biết là “ta” rồi. Chỉ có ta mới dùng từ đó. Dũng cũng từ gốc cây chạy lại. Người đàn ông là đồng chí Hai Hồ, cán bộ xã Dương Tơ. Cùng đón tiếp còn có đồng chí Bảy Gáo, bí thư Đảng uỷ xã. Trong nhà, có bàn thờ Bác Hồ đang khói hương ngào ngạt. Trời ơi! Lẽ nào Bác đã ra đi thực sự? Hôm trước, tên Đại tá Trần Vĩnh Đắc, phụ trách trại giam ngọt nhạt “Xin chia buồn vì Bác Hồ của các bạn…”, anh em còn bán tin bán nghi. Nỗi đau quá lớn, hai người lính thẫn thờ rồi khóc như mưa như gió trong buổi sáng mùa thu đoàn viên ấy…
Nỗi niềm đau đáu
Ít ngày sau, họ được đưa về huyện đội, được phân công vào lực lượng quân báo. Năm 1972, Dũng được đưa về đất liền, công tác tại Trung ương Cục miền Nam. Hòa bình, anh được cử đi học quản lý kinh tế. Năm 1978, anh được phân công về Ủy ban khoa học kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh công tác, sau đó chuyển qua Sở Thương nghiệp. Năm 1990, anh về hưu, đời sống khá khó khăn nên lại phải chuyển qua một xí nghiệp tư nhân làm thêm kiếm sống. Dần dà, nhờ thu nhập của vợ là giảng viên Đại học Y Thành phố Hồ Chí Minh, cuộc sống bớt khó khăn hơn.
Từ năm 2003 đến nay, Vương Chí Dũng được anh em tù binh Phú Quốc vượt ngục tin tưởng giao giữ chức Phó trưởng ban liên lạc. Tổ chức có dấu má hẳn hoi nhưng chẳng có kinh phí, các anh toàn phải bỏ tiền túi để lo đi tìm, kết nối những người vượt ngục, động viên, giúp đỡ nhau làm ăn. Số anh em vượt ngục Phú Quốc, theo thống kê có hơn 200 người còn sống, nhưng đến nay tản mát về sinh sống trên mọi miền đất nước, mới “kết nối” được hơn 60 người. Ngay anh Tiến, người cùng vượt ngục với anh Dũng, cũng không biết bây giờ còn sống hay đã chết, ở đâu?
Đặc biệt, mảng việc bề bộn nhất là giúp đỡ giải quyết chính sách cho số anh em tù binh vượt ngục năm xưa. Nhiều người hi sinh đến nay vẫn chưa được công nhận là liệt sĩ. Như trường hợp anh Hồ Văn Thông, vượt ngục, hi sinh tại Phú Quốc, trước khi bị bắt từng là dũng sĩ diệt Mỹ, được tỉnh Bình Dương đưa vào diện đề nghị phong Anh hùng LLVT nhân dân. Thế mà hai năm nay, các anh gửi hồ sơ làm thủ tục liệt sĩ cho anh, địa phương vẫn chưa giải quyết. “Bọn tôi làm vì việc nghĩa, ông già ảnh gần 90 tuổi rồi, già yếu lắm, vẫn bảo: Chờ bằng liệt sĩ của thằng Thông mới chịu nhắm mắt”.
Một trong những mảng việc mà anh trăn trở nhất là giúp anh em cựu tù vượt ngục làm thủ tục thương binh. Theo chính sách của Nhà nước thì họ đều thuộc diện được hưởng chế độ thương binh 4/4 trở lên cả. Thế mà hiện nay, vì nhiều lý do khác nhau, vẫn còn rất nhiều trường hợp chưa được hưởng chế độ gì. Chẳng đâu xa, chính anh Ngọc, anh Mẫn, trong ban liên lạc, ngày ngày lo giúp đồng đội, nhưng vẫn chưa được công nhận là thương binh...
(Kỳ 6: Vượt ngục nhờ... thùng rác)
Bài và ảnh: NGUYỄN VĂN MINH