Đinh Văn Hồng (bên trái) và Tô Văn Mơ sau khi vượt ngục (năm 1972).
(Tiếp theo kỳ trước)

Có hai người lính “óc thép, gan trời” đã dám ngang nhiên vượt qua mấy chục lớp rào thép gai, trốn thoát ngay giữa thanh thiên bạch nhật. Một trong hai người ấy nay còn sống, hiện ở thành phố Cần Thơ, khó khăn, bệnh tật, thiệt thòi...

Tuổi 18 ở Phú Quốc

Tôi ngập ngừng gõ cửa gian phòng tập thể ọp ẹp của “người hùng vượt ngục” Đinh Văn Hồng ở thành phố Cần Thơ.

- Ai biểu cậu tới đây! Định viết văn, viết báo hả? Thôi đủ rồi! Chiến tranh qua lâu rồi, ai có phận nấy, kêu ca kể lể hoài làm chi, không xứng mặt lính chiến. Mà cậu biết gì về Phú Quốc, về Cây Dừa?

Người đàn ông tóc húi cua, gương mặt đỏ bừng, cái nhìn sắc lạnh, săm soi tôi. Anh lừ lừ chỉ tay vô trán:

- Sờ thử coi nè! Hai viên đạn ngay thái dương đây. Còn đây nữa – anh vén bụng, để lộ mảng lưng, bụng đầy sẹo.

- Anh dính đạn nhiều thế à? Tôi tròn mắt hỏi

- Đạn điếc cái con khỉ? Chuồng cọp, chuồng chó đó! Mà thôi, thế hệ chú mày, cà phê chuồng, chuồng nhậu, chuồng lắc chắc rành, chứ biết thế chó nào là chuồng Cọp.

Đinh Văn Hồng kể lại những ngày vượt ngục.
Tôi nhẫn nhịn trình bày rằng, tôi cũng là bộ đội, từ Hà Nội vô không phải để nghe… chửi! Nghe thấy thế, anh vỗ đùi đánh đét:

- Chú em khá! Nể tình chú em cũng là lính, vô nhà đi…

Trọn một ngày trong căn hộ tập thể tồi tàn, ẩm mốc, lúc cà phê, khi rượu đế, tôi ngồi nghe anh kể về đoạn đời ly kỳ không kém gì tiểu thuyết.

Năm 1965, mười sáu tuổi, từ làng quê nghèo Xuân Vinh (Hoài Mỹ, Hoài Nhơn, Bình Định) Hồng tình nguyện viết đơn vào bộ đội. Anh được điều về tiểu đoàn 50 của LLVT Bình Định, một đơn vị “bán đặc công”, ngày ngày tập kích, đánh quấy rối địch.

Tháng 12-1967 là một mùa đông không thể quên trong cuộc đời Hồng. Anh cùng đồng đội chuẩn bị cho trận đánh lớn, Mậu Thân 1968. Bữa ấy là ngày 29-12, Hồng ngồi trong hầm ngâm chân nước muối, rửa cho thật sạch, cho hết vết chua phèn để vào thành dễ bề hoạt động thì nghe tiếng la ó, tiếng chân chạy thình thịch phía trên. Biết có địch đi càn, ba anh em trong hầm bàn bạc cách đối phó. Còn đang thì thào thì ục, cửa hầm bị lật tung, cả ba người bị chúng tóm gọn không kịp trở tay.

“Vừa lôi lên khỏi mặt đất, nó đã đánh phủ đầu tối tăm mặt mũi rồi kề súng sát mang tai dọa giết nếu không khai. Lúc đó sợ lắm, nhưng nói thật là trước đó tôi đã đọc Bất khuất của Nguyễn Đức Thuận, Sống như anh của Trần Đình Vân nên tự trấn an mình phải như các ảnh. Nó bắn chỉ thiên, năm lần bảy lượt tra tấn, mình chỉ khai nhăng cuội. Chúng tống vô biệt phòng trong trại giam Phú Tài rồi đưa ra Phú Quốc khi mới 18 tuổi”.

Người hùng ở Cây Dừa

Một tên quân cảnh đeo lon đại úy, râu ria xồm xoàm như quỷ, chắp tay đi tới đi lui, quát tháo loạn xạ. Hắn quét cái nhìn cú vọ vào từng người rồi gằn giọng:

- Chúng mày đã có mặt ở nhà lao Cây Dừa, Phú Quốc. Thằng nào giỏi cứ trốn, nếu muốn làm mồi cho cá sấu hoặc ăn mìn quốc gia. Ra đây, thân phận chúng mày không bằng con ngóe. Tổng thống đã cho phép tụi tao “vô tư” nổ súng mà không hề hấn gì. Nhiều thằng đã chết như súc vật rồi. Cách tốt nhất để chúng mày bảo toàn mạng sống là phải biết nghe lời, rõ chưa bọn phiến cộng. Đúng! Chúng mày chỉ là bọn giặc cỏ phiến cộng!

Hắn đang nói, bất chợt, trong hàng tù binh, một người lính trẻ, đầu cắt cua bước ra, quắc mắt nói to:

- Không được nhục mạ tù binh! Chúng tôi không phải là phiến cộng, giặc cỏ. Đề nghị đại úy đối xử với tù binh đúng theo công ước quốc tế!

- Đù má! Thằng này chán sống hả? Công ước quốc tế ư? Hé, hé…- gã đại úy cười gằn - ở đây làm chó gì có luật lệ nào. Tao sẽ cho mày biết thế nào là luật lệ, thế nào là công ước quốc tế nhá. Này công ước này, phiến cộng này!

Gã đại úy lao đến như một con thú, cây gậy trong tay vung lên chớp nhoáng. Người lính trẻ chỉ kịp lấy tay ôm mặt rồi gục xuống. Mọi người chạy lại, mồm anh tuôn đầy máu, hai chiếc răng cửa rơi ra, dính lẫn đất cát trong tay.

Người lính ấy là Đinh Văn Hồng.

Sau cú ấy, Hồng được đưa về khu B2, nơi dành cho những thành phần địch cho là “nguy hiểm” nhất, có nguy cơ vượt ngục sớm nhất. Sẵn tính ngang tàng, gặp gì phản ứng đó, chỉ ít lâu sau thì Hồng bị đưa vào khu biệt giam cấm cố, khi chúng bẻ một cái răng, lúc lấy búa ghè vỡ móng tay, móng chân… Không “cảm hóa”, chúng quẳng anh vô chuồng cọp, chuồng chó, ngày đêm dãi nắng dầm mưa, lom khom như con chó, không ra đứng, chẳng ra ngồi, vì chỉ cần cựa chút, cọc sắt nhọn đâm thủng lưng. Rồi chúng cho qua “lộn vỉ sắt”, tức nhà lộn qua hàng rào bùng nhùng có gài mìn bên trong. Sức tù èo uột thế, không cố, mìn nổ toi đời. Chán hành hạ thể xác, chúng giở trò bắt ăn cơm trộn nước đái…

Ít lâu sau, anh xung phong thực hiện một nhiệm vụ Đảng ủy nhà giam giao: Trùm áo diệt một tên chỉ điểm gian ác rồi quẳng vô bếp lò.

Sáng hôm sau, tên giám thị hay tin người “của mình” bị chết vì rơi vào bếp lò. Nhưng đoán được nguồn cơn, hắn cho bắt mười người tình nghi nhất, dọa cho chui vô bếp lò xem sao. Không nỡ để đồng đội chết oan uổng vì mình, Hồng khảng khái:

- Họ không có tội chi cả! Chính tui giết nó! Nó là thằng đồng tính, đêm đêm sang mó máy tôi, tôi điên quá nên giết nó.

Chúng lôi Hồng đi. Lần này, chúng dùng một thủ đoạn tra tấn dã man chưa từng có: mổ hạ bộ, cho vào một con đỉa trâu Phú Quốc to tổ bố rồi khâu lại. Con đỉa đói cứ thế hoành hành trong cơ thể anh suốt buổi sáng. Hồng ngất đi… Khi anh tỉnh dậy thì hạ bộ chỉ còn là một đống thịt nát bấy. Tên giám thị cười khùng khục:

- Đù má! Tưởng mày anh hùng thế nào? Hóa ra thua một con đỉa!

Bọn chúng khiêng anh về, quẳng vô chỗ cũ. Đồng đội xúm lại, người kiếm thuốc đỏ, kẻ lau rửa, băng bó cho anh. Lòng anh trào lên bao uất hận. Làm gì để trả thù này? Chỉ có một cách: Phải trốn, mà trốn sao cho chúng thấy cay nhất, đau nhất. Chính trong giờ phút đau đớn tột cùng ấy, anh lóe lên ý tưởng: Trốn giữa ban ngày.

Vượt ngục giữa ban ngày

Nghĩ vậy, nhưng làm thế nào để trốn được ban ngày đâu có dễ. Hồng suy nghĩ, tính toán mấy tháng trời. Những trưa hè, anh ngồi nhìn ra ngoài, những dãy rào thép gai trùng điệp. Nắng quá, bọn quân cảnh ngán chẳng đi tuần, chui hết vô bóng rợp. Chỉ còn mấy cái vọng gác chỏng chơ như những chòi chim cu. Mấy thằng lính gác đứa gà gật, đứa vừa gác vừa lim dim coi sách, báo. Kẽ hở là đây! Mình sẽ trốn, sẽ lợi dụng chính khoảng thời gian dăm ba phút hắn coi sách đó để hành động.

“Tôi bò đến Tô Văn Mơ, cậu bạn đồng hương đưa ra “kịch bản” vượt ngục, Mơ lắc đầu: “Cậu điên à! Sao không trốn ban đêm? Trốn ban ngày như thế chắc chết lắm!”. “Không! Chính lúc đó kẻ thù ít nghi ngờ nhất! Hãy tin mình!”. “Cậu đã báo cáo Đảng ủy chưa?”. “Rồi! Ông Sáu Long đã nhất trí”. Sự tán thành của Đảng ủy là một yếu tố quan trọng thuyết phục Mơ. Chúng tôi quyết định chọn một ngày nào đó để vượt ngục cho thật ý nghĩa. Cuối cùng, ngày 5-8-1972 đã được chọn, để chào mừng Cách mạng Tháng Tám” – Đinh Văn Hồng hồi tưởng lại.

Xế trưa 5-8, viện cớ ra hố xí đi vệ sinh, Hồng, Mơ bắt đầu hành động. Cả hai cởi bỏ áo quần, chỉ mang theo một cái quần lót, một con dao. Họ luồn qua cầu tiêu, bật nhanh qua hàng rào thứ nhất. Lớp hàng rào bùng nhùng trải khá dài vậy mà sức tù vẫn lăng người qua như vận động viên thể thao êm ru. Cứ mỗi lần tên lính gác cúi mặt xuống trang sách (độ 3 phút) cả hai lại băng qua một lớp rào. Rất may ban ngày không có chó, ngỗng. Còn mìn trái, địch chỉ gài trong lớp ruột rào. Khó nhất là nhảy qua lớp hàng rào mái nhà. Nó rộng tới 3 mét, phải tung người ra giữa, đưa chân xuống làm điểm tựa rồi bật lần thứ hai bay qua.

Gần một giờ đồng hồ, hai người qua được 16 lớp, ra đến hàng rào cuối cùng. Lúc này mới kịp nhìn lại mình, chỉ còn hai thân thể trần truồng, bê bết máu…

Hai người lính ấy còn phải trải qua hành trình 16 ngày lang thang trong rừng. Họ là dân miền Bắc, đâu nắm được địa hình. Cả hai lang thang trong rừng sâu, bứt lá, bắt cá lòng tong, cua, ếch, kỳ nhông… nhét vô mồm cầm cự. Đến ngày thứ tám, họ gặp một ngôi chùa, mừng rỡ vào xin ăn. Sư thầy nhìn họ ngỡ… quỷ sứ, sợ nhũn người nhưng sau hiểu sự tình, nấu cho “một bữa no”, mỗi người đánh hơn chục chén cơm với tương. Hỏi nhà chùa hướng “cách mạng”, họ lắc đầu không biết. Cả hai lại thất thểu bước đi.

Ngày thứ chín, vẫn chỉ có rừng xanh. Mơ lại lên cơn sốt, một phút ngã lòng, anh rơi nước mắt, chán nản, tuyệt vọng. Hồng cũng ứa nước mắt nắm tay bạn: “Cứ đi rồi sẽ tìm đến cách mạng. Cực quá thì chúng mình làm “người rừng” vài ba năm, quyết không đầu hàng nghe Mơ!”. Mơ gật đầu…

Họ lại lên đường đi tiếp. Ngày thứ mười một, họ bắt gặp một ngôi nhà nghèo mái lá ở sát bìa rừng. Nhà nghèo thường là nhà người cách mạng. Họ đã nhận định đúng. Hai chị em cô gái người Việt gốc Hoa tên là Phùng Quế Anh chính là một cơ sở cách mạng của ta. Chị em cô đưa họ đến gặp anh Ba Chanh, cán bộ huyện đội Phú Quốc trong niềm vui mừng trào nước mắt.

“Người hùng vượt ngục ban ngày” năm xưa bây giờ ngồi trước mặt tôi là một người đàn ông mệt mỏi. “Sau ngày ấy, tôi công tác ở huyện đội rồi được đưa về R, chiến đấu đến ngày giải phóng, thêm một lần bị thương vào cuối năm 1974 nhưng vẫn còn may hơn Mơ. Cậu ấy vĩnh viễn nằm lại bên lộ Cây Sỏi trong một trận chiến đấu. Hòa bình, tôi được cử đi học sĩ quan tài chính nhưng vì khoái kỹ thuật nên xin đi học ở Trường Vin-hem Pích, một khóa học về vật tư công tác đảng, công tác chính trị. Học xong, được điều về Ban vật tư của Quân khu 9. “Lúc ấy, thương tật đầy người nhưng mình cũng như mấy anh em khác vì ham hố chút danh vọng, khai bớt đi nên giờ chỉ được thương binh hạng 3/4.

“Tôi không nhà cửa, không có một chút tài sản gì riêng tư gọi là đáng giá… Cuộc đời tôi chỉ có một nguồn vui duy nhất là phấn đấu trở thành người cộng sản kiên cường, xứng đáng với đồng đội và 5 người thân trong gia đình đã ngã xuống…” – tôi bồi hồi đọc một đoạn trong bản khai “lý lịch và tường trình” anh Hồng viết tay gửi tổ chức năm 1983. Bây giờ, tôi mới có dịp quan sát ngôi nhà của anh. Gian phòng tập thể số 45B Hoàng Văn Thụ anh đang thuê, khá xập xệ. Anh cho tôi xem bản hợp đồng ký với công ty kinh doanh và phát triển nhà Cần Thơ:

- Chú em hiểu chính sách, thử xem giùm tôi, chế độ ưu đãi cho thương binh gì mà mỗi tháng mấy trăm tiền nhà chỉ giảm cho 13.000 đồng, mua được có hai mớ rau? Nhưng thôi, dù sao, còn sống vẫn là may, tớ chẳng cần gì nữa. Đang tính buôn bán lặt vặt kiếm vài trăm ngàn 27-7 này ra Cây Dừa thắp hương cho “tụi nó”...

Bài và ảnh: NGUYỄN VĂN MINH

(Kỳ 5: Cú đánh bất ngờ trong rừng sâu)