QĐND - Từng con chữ li ti màu đỏ, nét chữ nghiêng nghiêng, nằm chen nhau trên những trang giấy mỏng manh là thước phim sống động, chân thực và vô cùng xúc động về những kỷ niệm của người liệt sĩ trong những tháng năm đi theo tiếng gọi hào hùng của đất nước.
Những kỷ niệm đi cùng năm tháng
Cuốn sổ nhỏ, mỏng manh, được đóng từ giấy pơ -luya, với những dòng viết đã mờ nhòe theo thời gian, là nơi liệt sĩ Vũ Đình Đoàn lưu giữ những dòng tâm sự mà ông “chắt chiu” trong suốt cuộc hành quân. Liệt sĩ Vũ Đình Đoàn nhập ngũ ngày 10-5-1965. ở Chí Linh được khoảng 2 tháng, đơn vị của ông hành quân vào miền Nam.
 |
Liệt sĩ Vũ Đình Đoàn.
|
Dường như, đi tới đâu ông cũng ghi chép lại. Những địa danh, những sự việc hiện lên chân thực và sống động qua cảm nhận rất riêng của một người lính. ông Vũ Bá Côn, đồng đội của liệt sĩ Đoàn, đặc biệt nhớ thói quen ghi nhật ký của bạn chiến đấu. Trong ký ức của ông Côn về liệt sĩ Đoàn, cứ tới đâu, hễ lúc nào có thời gian là ông Đoàn lại lấy cuốn sổ nhỏ ra để ghi lại. Không biết từ lúc nào, cuốn nhật ký đã trở thành người bạn thân thiết, chứa những điều “bí mật” của người lính. Cũng chẳng phải là những gì quá to tát. Chỉ là vài dòng về cảm xúc khi nỗi nhớ nhà bất chợt ập đến lúc đứng trên đỉnh đèo cao nhìn núi và trời hay niềm vui khi gặp được người quen khi tạm nghỉ giữa đường hành quân, thậm chí chỉ là một cơn mưa xối xả khi đứng gác… Tất cả đều được ông Đoàn thuật lại một cách đầy nâng niu.
Đọc những trang đầu của cuốn nhật ký, người ta có thể hiểu rằng những ngày đầu của cuộc hành quân vào Nam, có lẽ người chiến sĩ tên Vũ Đình Đoàn vẫn đau đáu nhớ về quê nhà. “Ngày 5-9 âm lịch là tôi đã đứng ở đỉnh đèo cao 1.500m. Đến ngày 10-9 là ngày giỗ bà nội tôi thì tôi ở đỉnh đèo cao 1.800m. Tối ngồi ăn ở đỉnh đèo với nắm cơm và hạt muối với Bống, Sáo, Côn và Giá… Lại nhớ về những ngày ở nhà…”, từng dòng chữ, với lối viết tháu, đã lột tả trọn vẹn cảm xúc của chủ nhân cuốn nhật ký. Và, trong những lúc cảm xúc miên man, nỗi nhớ đó lại thêm một lần xuất hiện. Đó là khi ông đặt chân lên đỉnh đèo cao 2.800m. Trong cuốn sổ nhỏ của mình, liệt sĩ Đoàn đã kể rằng ông phải mất đến 8 tiếng đồng hồ mới trèo lên tới đỉnh đèo. Lúc đó, mồ hôi nhễ nhại, mệt vô cùng, nhưng khi đứng ở nơi chênh vênh đó, chỉ nhìn thấy núi và rừng, nỗi nhớ nhà bỗng trào lên trong ông.
Thời ấy, nỗi nhớ được những người lính nén chặt trong lòng. Không phải họ sợ kỷ luật, mà bởi đơn giản họ sợ sẽ làm mình nhụt chí chiến đấu. ông Vũ Bá Côn nhớ lại: “Lúc đó chúng tôi rất nhớ nhà. Nhưng cũng chỉ nói qua qua cho nhau, còn lại giữ thầm trong bụng để không mất khí thế chiến đấu. Có gì thì ghi trong nhật ký hết. Khi đi hành quân thường rất mệt, không ai có thời gian nghĩ về gia đình. Nhưng lúc được nghỉ ngơi thì nỗi nhớ cứ trào lên không ngừng. Và lúc đó chúng tôi viết nhật ký. Ai cũng có nhật ký. Mỗi người có 1-2 quyển sách nhỏ, tự đóng. Chúng tôi viết rất tiết kiệm, viết bằng bút chì hoặc bút bi”.
Nhiệt huyết của một thời hoa lửa
Nhưng cuốn nhật ký không chỉ là nơi cất giấu nỗi nhớ nhà của liệt sĩ Đoàn. Cuốn sổ nhỏ tưởng chừng vô cùng mỏng manh cũng là nơi chứa đựng tất cả những nhiệt huyết nơi trái tim một người con yêu nước. “Ngày 9-1-1966 hành quân sang Quảng Ngãi, anh em còn cả một cuộc hành quân 15 ngày. Cảnh bị thương ngày 15-1-1966. Ngày 19-1-1966, tạm nghỉ 10 ngày. ăn cơm nguội với mắm tôm ở bìa rừng Quảng Ngãi. Cuộc sống đầy gian khó nhưng vinh quang của tôi… Ngày 1-2-1966, đơn vị hạ quyết tâm thứ Ba làm lễ ra trận. Đơn vị gồm 37 anh em trong đó có đội xung phong diệt xe tăng… Đọc 10 lời thề quân đội khí thế hừng hực như vũ bão nghiêng nước biển đổ lên trời, quyết diệt 8 máy bay, 5 xe tăng. Đúng 6 giờ tối ngày 1-2-1966 xuất quân”, những câu viết trong cuốn nhật ký đã vẽ nên bức tranh về một thời hoa lửa.
 |
Những kỷ vật của liệt sĩ Đoàn được tìm thấy sau 46 năm.
|
Đối với những người lính, dường như kỷ niệm về những người đồng đội sẽ mãi là những hồi ức đẹp nhất trong cuộc đời. Trong cuốn sổ ghi chép của mình, liệt sĩ Đoàn đã viết về niềm vui bất ngờ của ông khi bất chợt được một người bạn đến thăm. Niềm vui ấy quá lớn, tới nỗi đêm hôm đó ông đã mất ngủ. “…Tôi đang ngồi chơi thấy có người gọi anh Đoàn vào hồi 7 giờ tối ngày 9-2-1966. Tôi chạy ra gặp được ông bạn Trực, chồng cô Ty ở Quảng Ngãi. Bí lại gặp bầu và lại cùng sống trong một “giàn” chiến đấu như nhau. Rồi chúng tôi tâm sự về cuộc hành quân và gian khổ trong đời lính…”.
Càng gần lúc diễn ra trận đánh ở đồi Chóp Nón, cuốn nhật ký càng thưa dần, có lẽ liệt sĩ Đoàn không có thời gian. Trong một vài trang giấy ít ỏi, liệt sĩ đã ghi lại những dòng vắn tắt về việc chuẩn bị trận đánh thế nào, đào hầm pháo ra sao và việc quan sát máy bay địch… Cuốn nhật ký dừng lại ở ngày 30-2-1966, lúc đó liệt sĩ Đoàn có ghi rằng máy bay Mỹ đã quần thảo khu vực đồi Chóp Nón rất nhiều lần.
Ngày 28-3-1966, liệt sĩ Vũ Đình Đoàn hy sinh. Trong thời khắc cuối cùng của cuộc đời, ông đã cắn nát chiếc bút bi mực đỏ, ghi lên quân bài luôn mang bên người ngày, tháng mình nằm xuống, ngõ hầu sau này có người nhặt được báo tin cho con cái. Lá bài ấy sau đó được giao cho ông Vũ Bá Côn. Nhưng phải mãi cho đến năm 1975, ông Côn mới giao được nó cho anh Sơn. Còn anh Sơn, cho tới năm 2001 khi vào chiến trường xưa tìm bố, mới được người dân ở đó cho biết, chính ông đã tự tay ghi ngày tháng mất của mình lên quân bài.
Một kỷ vật cũng đặc biệt không kém của liệt sĩ Đoàn được người cựu binh Mỹ cất giữ cùng cuốn nhật ký chính là bức ảnh chụp hai bà Yến và Nhật. Những dòng lưu bút đằng sau bức ảnh của liệt sĩ Đoàn một lần nữa cho thấy nhiệt huyết đối với quê hương và niềm tin vào chiến thắng của ông. Nó cũng cho thấy ông dường như có linh cảm nào đó về sự hy sinh của mình. “Nhật - Yến thân mến, tấm ảnh này hai em tặng anh lúc lên đường làm kỷ niệm vào ngày 9-6-1965. Đến nay anh đang sống với đồng bào miền Nam và anh ráng cố còn sống vào ngày 9-3-1966 ở Quảng Ngãi. Nếu anh hy sinh, cũng vì Tổ quốc, vì giải phóng miền Nam. Nếu còn sống, trong những ngày thống nhất anh em ta lại được sum họp và công tác, thật là đầm ấm trong cảnh thống nhất…”.
Có lẽ, vào thời khắc ấy, liệt sĩ Đoàn đã tin rằng đất nước sẽ được thống nhất. Và điều đó đã diễn ra 9 năm sau khi ông hy sinh.
Thu Trang-Vũ Hùng
(Còn nữa)
Kỳ 4: Xoa dịu nỗi đau chiến tranh
Kỳ 2: Liệt sĩ và cây tú-lơ-khơ "biết nói"