QĐND - Nằm cách bờ biển Cửa Tùng thơ mộng không xa, có một quả đồi trọc mênh mang cát trắng. Đó là “đồi Cát”, tên quân sự là cao điểm 21, thuộc xã Gio Mỹ, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Những người dân quanh vùng còn gọi đồi Cát là “đồi thiêng”, vì quả đồi này gắn với câu chuyện về một trung đội anh hùng, một trận đánh bi hùng diễn ra từ năm 1968 và đã từng bị lãng quên…
Tìm về đồi Cát
Nói đúng hơn là câu chuyện suýt bị lãng quên nếu như không có ông Hoàng Ngọc Bích, người lính còn sống sót duy nhất của trận đánh ấy.
 |
Đồi Cát - điểm cao 21 hôm nay. Ảnh: Nguyên Minh
|
Khi ấy là năm 1985, ông Bích đang là giảng viên Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Trở về từ chiến trường sau gần 20 năm, mang trong người nhiều vết thương, ông rất yếu, hoàn cảnh kinh tế gia đình cũng chật vật. Dành dụm cả tháng lương, một chiều mùa hè năm 1985, ông Bích dặn vợ:
- Anh phải vào chiến trường xưa tìm anh em!
Sau hai ngày tàu xe, ông vào tới Gio Mỹ nhưng đến nơi, nhìn đâu cũng thấy nhức một màu cát trắng. Ông Mỹ tìm vào làng, gặp một cụ già 90 tuổi, là người thông thạo địa hình, nắm nhiều chuyện thời đánh Mỹ. Ông Bích ngập ngừng:
- Thưa cụ, cụ có biết điểm cao 21 thời đánh Mỹ giờ ở đâu không?
Cụ già lắc đầu. Nhưng khi ông Bích kể thì cụ gật gù:
- Có một trận chết nhiều lắm, xe tăng tràn lên, đánh nhau dữ dội cả ngày, bộ đội hy sinh cả. Chỗ đó là… đồi Cát…
Cụ già đưa ông Bích vượt qua những mảnh ruộng xơ xác, đến chân một quả đồi nhỏ, cát trắng điệp trùng. Kia rồi! Đúng điểm cao 21 kia rồi. Ký ức một thời máu lửa bỗng hiện về dữ dội trong ông.
Mùa thu rực lửa
Ngày ấy, Trung đoàn 270 đặc khu Vĩnh Linh có nhiệm vụ phối hợp cùng bộ đội địa phương và nhân dân hai huyện Vĩnh Linh, Gio Linh tiêu hao sinh lực địch, bảo vệ vững chắc giới tuyến tạm thời.
Năm 1968, sau Chiến dịch Mậu Thân, ta và địch trong thế da báo, giành nhau từng tấc đất, quả đồi. Đầu năm 1968, sau khi bị quân ta giáng đòn đau ở Huổi San - Tà Mây, cứ điểm Làng Vây bị đánh và sân bay Tà Cơn bị khống chế buộc địch phải cố sống, cố chết dựa vào con đường vận chuyển tiếp tế hậu cần từ cảng Cửa Việt.
Tháng 5-1968, Đại đội 2, Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 270 là một đại đội chủ lực đã cùng du kích xã Gio Mỹ vận động phục kích, tiêu diệt gọn một đại đội thuộc Tiểu đoàn 3, Lữ đoàn 196 lính thủy đánh bộ Mỹ. Lịch sử Trung đoàn 270 còn ghi, Trung đội 6 do Trung đội trưởng Khương Văn Chi chỉ huy đảm nhiệm một mũi tiến công đã lập công xuất sắc.
Bước sang mùa thu, địch đang âm mưu mở một chiến dịch càn quét ra bờ nam sông Bến Hải. Trung đội 6 được giao nhiệm vụ chốt giữ điểm cao 21, tiêu hao sinh lực địch ở điểm cao 31 đối diện. “Nhiệm vụ của tiểu đoàn tôi là phải giữ bằng được không cho địch tràn ra sông Bến Hải như chúng huênh hoang là “sẽ ra rửa chân ở sông Bến Hải” - ông Bích nhớ lại.
 |
Nhân chứng lịch sử Hoàng Ngọc Bích, chiến sĩ duy nhất còn sống của Trung đội 6. Ảnh: Nguyên Minh
|
“Ngày 2-9-1968, chúng tôi vào chiếm lĩnh ở khu vực từ Xuân Mỹ, Gio Mỹ tới Gio Thành, Cửa Việt” - ông Bích bồi hồi kể.
Khi về Đại đội 2, Tiểu đoàn 4, đơn vị thấy ông Bích nhanh nhẹn nên bổ sung vào tổ bắn tỉa, bắn địch ở điểm cao 31. Hồi đó xung quanh không có cây cối gì, chỉ toàn cát trắng. Thế mà ông Bích và đồng đội ngụy trang rất khéo, bắn tỉa diệt địch ngay giữa ban ngày. Ông Bích đã tiêu diệt nhiều tên địch, được tặng thưởng bằng Dũng sĩ diệt ngụy.
Đầu tháng 10-1968, ông Bích được điều về làm liên lạc cho cán bộ đại đội, do ông Nguyễn Hữu Cánh, Chính trị viên phó chỉ huy.
Cay cú vì bị ta bắn tỉa chết nhiều, địch điên cuồng tìm cách xóa sổ lực lượng của ta. Ngày 15-10, hai đại đội bộ binh ngụy có cố vấn Mỹ từ điểm cao 31 tấn công điểm cao 21. Trung đội 4 chiến đấu dũng cảm, địch bị thiệt hại nặng một đại đội phải quay về cứ điểm 31.
Tối 15-10, Trung đội 6 được lệnh chuyển lên chiếm lĩnh điểm cao 21. Chính trị viên phó Nguyễn Hữu Cánh và Trung đội trưởng Khương Văn Chi trực tiếp chỉ huy hướng này.
“Đó là một đêm trắng, chúng tôi vào chiếm lĩnh trận địa lúc 8 giờ tối, đến 4 giờ sáng phải xong công sự để chiến đấu ngay” - ông Bích kể lại.
Trung đội "chọi" đại đội và 10 xe thiết giáp
Sáng 16-10, trận địa sau cả ngày quần nhau với địch yên ắng lạ lùng. 8 giờ sáng, pháo bầy của địch ầm ầm giội vào mấy chục phút rồi lại lặng im.
Biết là địch chuẩn bị tấn công nhưng những người lính vẫn bình thản lạ thường. Anh Bích, anh Cánh và anh Thể nằm chung hầm vẫn còn đọc quyển tạp chí có nói về chuyện… bói Kiều. Khoảng 9 giờ thì trên mặt đất nghe tiếng rì rầm rì rào, trời tháng 8 âm lịch rất nóng, khó chịu. Anh Bích nói:
- Hình như có địch anh Cánh ạ, để em chạy ra ngoài xem sao.
Nói rồi anh Bích chui khỏi hầm chữ A ra chiến hào thì đã nhìn thấy lúc nhúc xe tăng từ xa. Ngay lập tức ông báo cáo chỉ huy. Anh Cánh lệnh dùng đài 2W điện báo cáo tiểu đoàn.
“Hai đại đội địch tăng cường xe tăng sẽ tấn công. Chờ địch vào thật gần mới đánh. Trên sẽ chi viện hỏa lực”. Mệnh lệnh từ Ban chỉ huy tiểu đoàn.
“Xe tăng địch nó bò vào như cua ở cả hai bên. Nó vào cách 50-70m thì dừng lại, cứ thế nã đạn vào trận địa hơn 10 phút. Cả trận địa mù mịt, rung chuyển tưởng như tan tành. Nhưng phía ta vẫn im lìm, không bộc lộ gì” - ông Bích kể lại.
Đợt tấn công lần thứ nhất, địch vướng mìn chống tăng, hai xe tăng bốc cháy ngùn ngụt khiến chúng hoảng sợ phải lùi ra, tiếp tục gọi pháo bắn. Một quả đúng hầm chỉ huy khiến anh Thể - chiến sĩ trung liên gãy chân. Anh Cánh lệnh: “Bích, nổ súng nhử địch về phía có mìn chống tăng”.
Bích nổ súng, chiếc thứ ba mắc bẫy, tiếp tục dính mìn. Địch lại lùi ra.
Sau nhiều đợt tấn công của địch, Trung đội 6 đều bẻ gãy. Tuy nhiên, trung đội cứ mong chờ mãi hỏa lực pháo binh của trên chi viện thì lại không có. Đến chiều 16-10, ta đã thương vong nhiều mà địch vẫn tràn lên. Tai Bích đã điếc đặc vì bắn B40, B41 quá nhiều. Địch bắn đạn lửa khiến mặt anh cháy bỏng rát. Tuy nhiên, anh vẫn dũng cảm cơ động, gọi anh Man quân y lên băng bó cho anh Thể. Khi anh Man lên được tới nơi thì xe tăng đã ở rất gần. Bích vừa thò đầu khỏi chiến hào thì địch bắn như mưa. Anh mưu trí cởi áo, rồi cởi quần lần lượt ném ra. Ném tới đâu, địch bắn tới đó, Bích lại cơ động, nghi binh để nổ súng.
Địch tấn công thêm một đợt nữa, tiếng súng ta đã thưa thớt. Tiếng anh Cánh hô:
- Bích, chạy tìm anh Chi tập hợp anh em đánh đợt cuối cùng.
Bích bò xuống vị trí anh Chi thì xe tăng đã vây đầy xung quanh. Một cảnh tượng đau lòng. Trung đội trưởng Chi tay lăm lăm cầm súng, cả bả vai bị đạn phá lật ngược lên trên. Anh Chi đã hy sinh, vẫn trong tư thế cầm súng. Trung đội phó là anh Miên cũng đã hy sinh. Trong hầm, xác anh em la liệt. Bích vẫn nghe tiếng anh Tứ người miền Nam quát to:
- Bắn vào chỗ tao đi, anh em hy sinh hết rồi!
Sức cùng, lực kiệt mà địch vây đầy xung quanh. Bích ức phát khóc vì không thấy pháo bắn chi viện. Sau này anh mới nghe lý do ta hết đạn hoặc do sợ bộc lộ lực lượng.
Anh lại bò lên hướng anh Cánh và anh Man. Tai điếc đặc, anh Cánh lệnh cho anh lui lại đằng sau nhưng Bích đề nghị:
- Hai anh cứ xuống dưới trước, em ở lại với anh Thể và chiến đấu đánh lạc hướng chúng!
Hai anh Cánh, Man vừa cơ động thì địch phát hiện ra, chúng đồng loạt nã ĐKZ và cho xe tăng càn lên. Hầm chữ A bẹp dí. Bích bị sập hầm vùi kín, ngất đi.
Cả ngày hôm ấy, Trung đội 6 như những thiên thần xung trận, bất ngờ lao lên từ các hầm cát, bắn B41, quăng thủ pháo, điểm xạ AK, bình tĩnh giáng trả chúng. Năm xe tăng của địch bốc cháy, hàng chục tên bị tiêu diệt. Không còn súng thì dùng lê, dao găm! Chiến sĩ ta xông tới đánh giáp lá cà. Nhưng 33 chiến sĩ là quá mỏng, các anh hy sinh, xe tăng địch quần nát toàn bộ công sự...
Ý chí kiên cường của ta khiến địch khiếp sợ, không dám bám trụ mà phải rút về điểm cao 31, ý đồ càn quét ra nam sông Bến Hải bị phá vỡ.
Người lính cuối cùng
Nửa đêm hôm ấy, Trung đội 3 được lệnh cơ động vào trận địa làm công tác thương binh tử sĩ. Ông Nguyễn Xuân Dòng, chiến sĩ liên lạc Tiểu đoàn 4, một người tham gia kể lại với chúng tôi mà nước mắt cứ tuôn trào: “Khi chúng tôi lên tới nơi, cả chiến trường bị san phẳng, ngổn ngang vết xe tăng giày xéo. Có nhiều vệt máu đỏ lịm cát trắng nhưng chỉ tìm thấy một vài thi thể!”.
Anh em nhận định, địch đã thu gom hết xác bộ đội ta rồi cho xe tăng ủi lên. Một số thi thể được đưa ra rú Thụy Khê mai táng nhưng vài tiếng thì địch phát hiện. Chúng bắn pháo sáng, rọi đèn pha, phi pháo lại nã vào trận địa. Mọi người đành phải rút ra.
Đêm ấy, mò tìm trong trận địa, anh em phát hiện thấy một cái đầu nhô lên. Đào bới thì phát hiện là Hoàng Ngọc Bích, thân thể anh không mảnh vải che thân. Sờ thấy anh còn nóng, anh em mừng rỡ đổ nước thì Bích tỉnh lại. Anh Nguyễn Mạnh Hùng đưa Bích một tấm lương khô khi thấy mắt Bích mở ra. Mắt Bích sáng lên, câu đầu tiên, anh nói:
- Thủ pháo hả? Đưa thủ pháo cho tao diệt xe tăng!
Nhờ những thanh gỗ trong hầm chữ A, nên dù bị xe tăng đè nghiến, Bích là người duy nhất trong trung đội thoát chết. 32 cán bộ, chiến sĩ của trung đội đã anh dũng hy sinh.
Hoàng Ngọc Bích tai ù đặc, mặt cháy sém vì đạn lửa, tóc rụng sạch, cả năm sau, những di chứng của trận đánh còn làm tàn tạ thân thể anh. Anh vẫn chập chững… tập đi, như người mất hồn, phần vì vết thương, phần vì xót xa nhớ thương đồng đội. Nửa tháng sau, anh được chi bộ đặc cách kết nạp Đảng và được bầu là đại biểu đi dự Đại hội thi đua Quyết thắng. Đại hội đã tôn vinh anh danh hiệu Chiến sĩ Quyết thắng toàn quân.
Đó là một buổi lễ kết nạp Đảng đặc biệt, ngay trên vùng đồi cát trắng. Đảng viên mới Hoàng Ngọc Bích da mặt cháy sém vì đạn địch, đầu trọc lóc, đi chưa vững. Chính trị viên và đại đội trưởng đứng hai bên xốc nách anh đứng tuyên thệ trước Đảng kỳ. Nhìn người chiến sĩ - người anh hùng của đại đội trong ngày vào Đảng, cả chi bộ không ai cầm được nước mắt…
Ký sự của NGUYÊN MINH
Kỳ 2: Người lập bàn thờ đồng đội tại nhà