QĐND - Mới đây, trong quá trình gặp gỡ, tiếp xúc với một số cán bộ cách mạng lão thành, chúng tôi đã được nghe một số nhân chứng kể về vị cán bộ cách mạng lão thành đã quá cố Phan Kiệm (bí danh Năm Thành, Đào Tấn Xuân, Năm Vân...), nguyên Bí thư Tỉnh ủy Đắc Lắc đầu tiên, nguyên Phó bí thư Khu ủy Sài Gòn-Chợ Lớn, nguyên Quyền tư lệnh Đặc khu Sài Gòn-Chợ Lớn trong 9 năm, từ kháng chiến chống Pháp đến chống Mỹ. Ông qua đời năm 1998. Tên ông được đặt cho một đường phố tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắc Lắc.
Để hiểu rõ hơn về người chiến sĩ trên mặt trận thầm lặng, chúng tôi đã đến gặp bà Dương Kim Bằng, phu nhân đồng chí Phan Kiệm. Bà Dương Kim Bằng năm nay 81 tuổi, hiện sinh sống cùng các con, cháu ở quận Phú Nhuận, TP Hồ Chí Minh. Cuộc đời làm cách mạng của bà gắn trọn với những năm tháng oai hùng, oanh liệt của Chiến khu Đ suốt từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp đến kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ. Từ một nữ giao liên, bà được học y tá phục vụ kháng chiến rồi tiếp tục học tập, phát triển thành nữ y sĩ rồi bác sĩ. Đồng chí Phan Kiệm vừa là chồng vừa là thủ trưởng của bà trong những năm tháng hai người đến với nhau và nên duyên vợ chồng.
Bà Dương Kim Bằng cung cấp thêm cho chúng tôi nhiều tư liệu trong di cảo về kháng chiến mà vợ chồng bà là người trong cuộc, là những chứng nhân lịch sử. Chúng tôi đã kết hợp tìm hiểu thêm về đồng chí Phan Kiệm qua các tài liệu khác như: Lịch sử Chiến khu Đ; Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đắc Lắc; Hồi ký của một số tướng lĩnh, tư liệu của gia đình “Thi tướng” Huỳnh Văn Nghệ…
Trong di cảo để lại, đồng chí Phan Kiệm đã viết về bản thân như sau: “Tôi xuất thân là người con trai độc nhất của một gia đình bần nông ở xã Triệu Thương, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, đất cày lên sỏi đá, đói rét quanh năm. Không chịu nổi cái nhục mất nước, cảnh bóc lột của đế quốc, phong kiến, cường hào ác bá, 16 tuổi, tôi tham gia cách mạng. Năm 1939-1940, lúc mới 19 tuổi tôi đã là Bí thư Huyện ủy và bị thực dân Pháp bắt đày đi Buôn Ma Thuột. Ở tù, tuy bị cầm cố, tôi vẫn giương cao ngọn cờ đoàn kết nội bộ, tích cực đấu tranh chống địch...”.
Là một người có sức khỏe, mưu trí, giỏi võ thuật nên thời gian ở trong tù, Phan Kiệm đã tổ chức nhiều vụ vượt ngục cho đồng chí của mình. Bản thân ông cũng mấy lần tự vượt ngục, song do bị giam giữ, theo dõi sát sao nên ý định bất thành.
 |
Vợ chồng Phan Kiệm - Dương Kim Bằng ở Chiến khu Đ trong kháng chiến chống Pháp. Ảnh tư liệu
|
Khi Nhật đảo chính Pháp, lợi dụng tình hình hỗn loạn, Phan Kiệm đã giác ngộ được đại đội lính Khố xanh, tổ chức lực lượng phá nhà tù thoát ra ngoài. Nhiều đồng đội khuyên ông trở về quê nhà hoạt động bí mật để có điều kiện gần gũi gia đình, song ông đã nghĩ khác. Phong trào cách mạng ở Tây Nguyên đang còn trứng nước, rất cần đến những người có kinh nghiệm và thông thạo địa bàn để làm nòng cốt mở rộng mạng lưới cơ sở. Mặc dù đã về đến Nha Trang nhưng ông đã quyết định quay trở lại Đắc Lắc, ngày đêm băng đèo vượt thác bằng đôi chân trần. Về lại Đắc Lắc, Phan Kiệm với cương vị Bí thư Tỉnh ủy lâm thời đã cùng với đồng chí Nguyễn Trọng Ba là Phó bí thư, tổ chức và lãnh đạo nhân dân Đắc Lắc vùng lên khởi nghĩa tháng 8 năm 1945.
Trong cuốn “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đắc Lắc”, đã viết về đồng chí Phan Kiệm, Bí thư Tỉnh ủy đầu tiên như sau: “Tháng 5-1945, Ban lãnh đạo lâm thời Đảng bộ tỉnh được thành lập, gồm một số đồng chí tù chính trị vừa ra, do đồng chí Phan Kiệm làm Trưởng ban (Bí thư), chủ nhiệm Tỉnh bộ Việt Minh Đắc Lắc. Ban lãnh đạo lâm thời đã nhanh chóng lãnh đạo mở rộng diện cơ sở, cốt cán cách mạng, xây dựng phát triển đảng viên và tổ chức được 3 chi bộ, lãnh đạo các tầng lớp quần chúng nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân ngày 24-8-1945. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, đồng chí chăm lo củng cố giữ vững chính quyền cách mạng còn non trẻ, chuẩn bị cho ngày tổng tuyển cử bầu đại biểu Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở tỉnh Đắc Lắc…”.
Ngày 5-12-1945, thực dân Pháp tái chiếm Đắc Lắc. Trước mưu đồ và sức mạnh tấn công ồ ạt của địch, trong lúc tiềm lực cách mạng còn non trẻ, Phan Kiệm đã tổ chức lực lượng chiến đấu chống giặc suốt 3 tháng trời với quyết tâm giữ bằng được Đắc Lắc. Khi Nha Trang và Ninh Hòa bị Pháp chiếm đóng, theo lệnh của trên, Phan Kiệm mới chịu rút lui để bảo toàn lực lượng. Ngay sau đó, ông được điều gấp sang làm Chính ủy mặt trận Quy Nhơn-An Khê, tổ chức lực lượng chống Pháp. Năm 1947, Phan Kiệm được giao nhiệm vụ phụ trách đoàn quân Nam tiến vào Nam Bộ.
Bước chân vạn dặm của ông liên tục qua lại giữa các vùng để tổ chức, tập hợp lực lượng, hết Đông Nam Bộ lại về khu 9, lên khu 8, về Sài Gòn - Gia Định, rồi lại lên Tây Ninh, khu 7… Bất cứ chỗ nào khó khăn, được điều động là Phan Kiệm có mặt. Đầu năm 1950, hoạt động của Đặc khu Sài Gòn-Chợ Lớn rơi vào tình cảnh hết sức khó khăn do nhiều cơ sở của ta bị lộ, địch tập trung bao vây, bố ráp khiến nhiều cán bộ của ta bị bắt, gây tổn thất lớn cho cách mạng. Trong các tài liệu lịch sử về hoạt động của Đặc khu Sài Gòn-Chợ Lớn mà chúng tôi đọc được, đã ghi rõ vai trò của đồng chí Phan Kiệm lúc bấy giờ: Phan Kiệm được cấp trên điều về Đặc khu để tăng cường sức mạnh chỉ đạo, tổ chức hoạt động quân sự, chiến đấu Biệt động. Đặc khu Sài Gòn-Chợ Lớn bao gồm thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn và một phần các huyện vùng ven thuộc tỉnh Gia Định, Chợ Lớn như: Thủ Đức, Gò Vấp, Nhà Bè, Trung Huyện… Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch là Chủ tịch, đồng chí Nguyễn Văn Linh là Bí thư; đồng chí Trần Quốc Thảo, Phó bí thư Đặc khu. Lực lượng vũ trang thuộc Đặc khu bao gồm toàn bộ hệ thống quân dân và du kích thuộc thành đội, Tiểu đoàn Quyết tử 950; các đội Biệt động và cơ quan Thành đội bộ dân quân. Ban chỉ huy quân sự Đặc khu do đồng chí Nguyễn Văn Thi làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Chính ủy; các đồng chí Đào Tấn Xuân, Nguyễn Hộ làm Chỉ huy phó (thời điểm này đồng chí Phan Kiệm đổi tên là Đào Tấn Xuân để giữ bí mật. Tháng 8-1950, đồng chí Nguyễn Văn Thi bị bắt, ông lên thay đồng chí Nguyễn Văn Thi làm Quyền chỉ huy trưởng Đặc khu); đồng chí Trần Lương (tức Trần Hải Phụng), Tham mưu trưởng. Trong một tài liệu chép tay, đồng chí Phan Kiệm có viết về giai đoạn này như sau: “… Có thời gian cả anh Mười (đồng chí Nguyễn Văn Linh) và anh Thảo (đồng chí Trần Quốc Thảo) về Trung ương Cục. Ở nhà chỉ còn anh Phạm Ngọc Thạch và tôi. Anh Thạch lo trí vận. Tôi vừa thường trực khu ủy vừa phụ trách quân sự…”.
Tình hình ở Đặc khu lúc bấy giờ đòi hỏi phải có những trận đánh “vỗ mặt” thực dân Pháp để đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, tạo niềm tin, sức mạnh củng cố cơ sở cách mạng. Đồng chí Đào Tấn Xuân (Phan Kiệm) đề xuất và lên phương án chiến đấu với chiến thuật đặc công. Được Đặc khu ủy thống nhất, ông đã trực tiếp tổ chức lực lượng Biệt động của các đội Quyết tử thực hiện những trận đánh "xuất quỷ nhập thần" giành thắng lợi vang dội, khiến cho địch hoang mang tột độ. Hai trận đánh lớn kinh điển của Biệt động Đặc khu thời kỳ này là trận đột kích phá hủy kho xăng dầu và bom đạn Phú Thọ Hòa, diệt gọn cả tiểu đoàn Âu Phi và trận đánh bất ngờ vào Câu lạc bộ không quân, tiêu diệt tại chỗ 72 phi công địch vào năm 1952. Hai trận đánh này được Phan Kiệm tổ chức và trực tiếp chỉ đạo thực hiện trong vòng một tuần. Với chiến công xuất sắc ấy, ông đã được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba. Một “điệp vụ” lớn do Phan Kiệm tổ chức thực hiện gây chấn động giới quan chức quân đội Pháp và Việt gian ở Sài Gòn là cuộc trừ khử hai tên trùm ác ôn Mai Hữu Xuân và Trần Bá Thành. Ở “điệp vụ” này, Phan Kiệm đã "tương kế tựu kế", sử dụng lực lượng quân báo trá hàng trà trộn vào hàng ngũ Việt gian để lần tìm manh mối những tên đầu sỏ rồi bí mật trừ khử chúng.
Đầu năm 1953, Phan Kiệm được tổ chức cử sang Trung Quốc học, song do tình hình ở Đặc khu vẫn đang khó khăn nên ra đến Liên khu 5, ông báo cáo tổ chức xin được trở lại Sài Gòn. Bằng kinh nghiệm và nhiệt huyết, trong vòng 3 năm (1954-1957), Phan Kiệm đã cùng các đồng chí trong Ban chấp hành Khu ủy mở rộng công tác vận động quần chúng và đánh địch bằng quân sự. Đặc biệt, được giao phụ trách địa bàn Liên quận 1-4, ông đã gây dựng phong trào, đưa quận 4 từ một quận yếu kém trở thành quận vững mạnh, ngọn cờ đầu của thành phố. Đầu năm 1957, liên tiếp một số cán bộ cốt cán của ta ở cơ sở bị địch bắt. Theo chỉ đạo của đồng chí Lê Duẩn (anh Ba), Thường vụ Khu ủy phải triển khai ngay các biện pháp để đối phó tình hình. Phương án được Thường vụ Khu ủy bàn bạc thống nhất là chia lực lượng Thường vụ thành 2 bộ phận, một bộ phận ở địa bàn ven đô, bố trí một văn phòng gọn nhẹ, an toàn ở khu Vĩnh Lộc, nếu có “động” thì nhanh chóng rút về Long An. Cách bố trí ấy vừa để đẩy mạnh công tác xây dựng cơ sở, vừa đề phòng trường hợp rủi ro, chỗ này bị lộ thì có chỗ kia ứng phó, thay thế.
Sáng 9-10-1957, Phan Kiệm đi họp Khu ủy để bố trí cuộc đấu tranh dự kiến diễn ra vào ngày 26-10. Đến chỗ họp thì nhận được tin, cơ sở Khu ủy ở quận 3 đã bị lộ, một số cán bộ đã bị địch bắt. Phan Kiệm lập tức đến nhà đồng chí Tám Quảng, cán bộ chủ chốt ở quận 3 để nắm tình hình. Vừa đến nơi thì ông rơi vào ổ phục kích của địch. Nhóm cảnh sát thuộc lực lượng Công an Định Tường gồm 6 tên đã phục sẵn, lao đến. Phan Kiệm dùng võ thuật đánh lại nhóm cảnh sát nhằm “mở đường máu” thoát ra, nhưng do khu vực này nằm sát chợ An Đông, người dân họp chợ đông nghịt nên rất khó khăn. Nhóm cảnh sát Định Tường bị Phan Kiệm đánh tơi tả, còn Phan Kiệm cũng dính nhiều vết thương, máu chảy xối xả. Do bị mất nhiều máu, lại có thêm 3 tên bảo an đến chi viện cho nhóm cảnh sát nên Phan Kiệm đuối sức và bị bắt. Chúng giải ông về bót Công an Ngô Quyền rồi điện thoại cấp báo cho Ngô Đình Nhu, Trần Kim Tuyến, tổ chức P42 (lực lượng mật vụ của Ngô Đình Nhu) và Đặc cảnh Miền Đông để “báo công”. Trong lúc tình hình đang khó khăn, lại bị bắt vào lúc phong trào cách mạng đang như “nước sôi lửa bỏng”, hàng loạt những bất lợi đang đặt ra. Phan Kiệm chuẩn bị tâm thế để đối phó với những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm và tàn bạo của kẻ thù sắp giáng xuống đầu mình. Quả nhiên sau những cuộc điện đàm “báo công”, đám sĩ quan cảnh sát lập tức đánh phủ đầu Phan Kiệm vì tội dám đánh lại cảnh sát. Theo chỉ đạo của Ngô Đình Nhu và Trần Kim Tuyến, hết Công an Ngô Quyền, Đặc cảnh Miền Đông đến bọn P42 ngày đêm thay phiên nhau tra tấn ông với những hình thức hết sức thâm độc và man rợ, làm gãy 3 xương sườn, gãy gần hết hai hàm răng, một bên tai bị thủng màng nhĩ.
Ghi chép của PHAN TÙNG SƠN
Kỳ 2: Những cuộc đấu trí trong lao tù