Bài 3: Những “thi sĩ” của đại dương

Yêu văn chương, thích làm thơ và từng sáng tác rất nhiều bài thơ dạt dào... như nước biển Đông, nhưng những chiến sĩ Trường Sa và Nhà giàn DK1 chưa bao giờ có ý định ra một tuyển tập thơ nào cả. Họ cũng chưa bao giờ nghĩ tới mình sẽ trở thành “nhà thơ” theo ý nghĩa đích thực của từ này. Bởi một điều thật giản dị: Trong những phút giây lắng đọng nhất của tâm hồn, họ muốn trải lòng mình với tình yêu biển đảo quê hương, với những người đồng đội đang ngày đêm canh giữ biển trời, với cha mẹ, người thân và bạn bè ở nơi đất liền.

Cùng đồng đội ngân nga giai điệu: Chỉ lính đảo xa mới hát, cây đàn ghi ta một dây...

Mỗi khi đặt chân lên các đảo nổi, đảo chìm và Nhà giàn DK1, tôi thường đến các hội trường và phòng Hồ Chí Minh để tìm hiểu thiết chế văn hóa và đời sống tinh thần của những người lính đảo. Trong số những ấn phẩm văn hóa hiện hữu nơi đây, những bài thơ viết trên báo tường có một sức hút đặc biệt đối với tôi. Cũng phải nói ngay rằng, mới nhìn bề ngoài, khá nhiều tờ báo trình bày không được “hoành tráng, rực rỡ sắc màu” và bắt mắt như những tờ báo tường ở các đơn vị trên đất liền mà tôi đã từng xem, từng biết. Nhưng những bài thơ viết trên báo tường ở đảo vẫn hấp dẫn tôi bởi nội dung mộc mạc, dung dị mà ẩn chứa bao ước mơ, khát vọng cao cả và những mong muốn đời thường của những người lính đảo.

Không diêm dúa, trau truốt, màu mè, lính đảo làm thơ rất thật, thật như chính suy nghĩ và việc làm hằng ngày của họ. Thể hiện ý chí, quyết tâm giữ vững chủ quyền biển đảo, thân yêu của Tổ quốc, chiến sĩ Võ Văn Tâm (đảo Song Tử Tây) đã viết bài thơ “Lính đảo Trường Sa” với những câu từ tràn đầy khí thế: “Hải quân lính đảo ở Trường Sa/ Canh gác ngày đêm giữ nước nhà/ Biển rộng mênh mông tình thắm thiết/ Trời cao lồng lộng nghĩa bao la”...

Với người chiến sĩ, không có gì thiêng liêng, cao quý hơn là được hiến dâng tuổi xuân của mình trong công cuộc giữ nước, bảo vệ giang sơn gấm vóc mà tổ tiên để lại. Trong niềm phấn chấn của mùa xuân đang đến, đoàn viên Nguyễn Văn Tuấn (Chi đoàn đảo bộ Sơn Ca) đã thốt lên những lời phơi phới của tuổi trẻ: “Xuân về trên đảo Sơn Ca/ Hân hoan tôi viết bài thơ tặng Người/Ngày đêm canh giữ biển trời/ Giữ yên bờ cõi cho đời xanh tươi”.

Cảm nhận vẻ đẹp lóng lánh về thềm lục địa phía Nam - “mỏ vàng” quý báu của Tổ quốc ta, Thiếu tá Trang Hải Âu đã thổn thức lòng mình với những câu thơ chứa chan niềm tự hào, kiêu hãnh của một người lính Nhà giàn: “Kia rồi! Đại Hùng, Bạch Hổ/ Sáng lung linh giữa biển quê nhà/ Vừng hồng lên giữa đại dương xanh biếc/ Trộn sắc màu soi sáng ta đi”.  

Tết Nguyên đán, thời điểm thiêng liêng nhất mà ai cũng mong muốn được đoàn tụ, sum vầy cùng gia đình, người thân bên mâm bánh chưng xanh. Nhưng với những người lính đảo, không được hưởng trọn niềm vui ấy thì họ vẫn biết nhen lên ngọn lửa “tổ ấm gia đình quân nhân” trong ngày Tết thật thân thương, ấm áp và lạc quan. Trong bài “Đón xuân trên đảo Sơn Ca”, chiến sĩ Ngô Hải Phi có những vần thơ hồn nhiên: “Xuân về trên đảo Sơn Ca/ Nhớ nhà cũng nhớ, nhưng mà cũng vui/ Cũng đàn, cũng hát, cũng chơi/ Cũng ngồi ngắm cảnh biển khơi sóng về/ Cũng bánh, cũng kẹo, cũng chè/ Cũng làn Quan họ, cũng vè suốt đêm/ Tết ở đảo, Tết thần tiên/ Tuy xa nhưng lại ấm êm nghĩa tình”.

Bên cạnh những bài thơ nói về tình yêu quê hương, Tổ quốc, biển đảo và tình thương yêu đồng đội, còn có một “mảng thơ” được những người lính đảo khơi nguồn khá dồi dào - đó là tình yêu đôi lứa và tình cảm gia đình. Được viết từ những cảm xúc mãnh liệt và nỗi nhớ thương da diết, nên khá nhiều bài thơ, câu thơ về đề tài này thể hiện sự rung cảm ngọt ngào và lay động tâm khảm người đọc. Trong bài thơ “Một chiều thu nhớ em”, Chuẩn úy Mã Văn Quyền (đảo Trường Sa Lớn) có những vần thơ khá giàu hình ảnh: “... Em ở nhà vẫn một dạ thủy chung/ Bức rèm đong đưa, ngọn đèn lặng lẽ/ Sáng mờ sương một gánh rau ngoài chợ/ Trưa chang chang kĩu kịt lúa trên đồng/ Đêm đông giá ánh lên ngọn lửa hồng/ Sưởi ấm lòng mẹ tóc đã pha sương”...

Nhớ mẹ cha, thương vợ con nơi miền quê xa trên đất liền ngày đêm mòn mỏi chờ đợi, người lính đảo luôn phải “ghìm” nỗi niềm sâu kín ấy tận đáy lòng để không bị xao nhãng, lơ là nhiệm vụ. Sự hy sinh thầm lặng ấy đã “hóa thân” vào những câu trong bài thơ “Xa con” của chiến sĩ Phan Thanh Tuyển (đảo Sinh Tồn Đông) nghe mới da diết làm sao: “Đảo xa ba giữ nước non/ Bóng con hình mẹ ba còn in sâu/ Cánh thư ba nối nhịp cầu/ Gửi về đất mẹ những câu ân tình/ Đêm nay đứng gác một mình/ Có thêm cây súng với hình ông trăng/ Ngoài kia gió thổi mây giăng/ Thương con nhớ mẹ ba hằng ấp iu”.

Không chỉ làm thơ, lính đảo còn những trang viết đậm đà chất văn. Xem cuốn sổ để trên đầu giường của Hạ sĩ Lương Quang Tú, lật qua mấy trang đầu, tôi dừng lại một trang có bài viết “Ấm áp tình động đội”. Sau gần một năm công tác ở đảo Sinh Tồn Đông, người lính trẻ ở thành phố mang tên Bác Hồ có những cảm nhận sâu sắc về tình đồng đội:

“Những đêm trăng thanh lộng gió, đồng đội ngồi bên nhau đàn hát. Tiếng trầm, tiếng bổng đan xen vào nhau trong sự đồng thanh ngọt ngào tha thiết. Tiếng đàn, tiếng hát hòa quyện vào nhau tạo nên một âm hưởng vừa giản dị, vừa sâu lắng.

Trong trái tim người lính đảo, không gì thiêng liêng, sâu nặng hơn hai tiếng “Chủ quyền”. (Ảnh chụp một tờ báo tường của Bộ đội Trường Sa).

Khi liên hoan không có tiếng chạm lách cách của ly, của cốc. Chỉ có một cái bát quay vòng, họ cùng hưởng niềm vui với vị cay nồng lâng lâng của rượu. Tiếng cười vang rộn xen lẫn với những lời chúc mộc mạc, giản dị càng làm cho buổi liên hoan thêm tưng bừng mà vẫn chứa chan tình cảm của những người cùng chung một màu  áo quê hương.

Mượn được tờ báo, một người đọc, tất cả xúm quanh lại cùng nghe. Đọc câu chuyện vui, tiếng cười giòn giã, trẻ trung vang lên. Đọc câu chuyện về một tấm gương sáng, mọi người lặng yên theo dõi. Từng chữ, từng câu như thấm vào con tim, khối óc mỗi người. Lúc ấy họ nhìn nhau, trầm trồ khen ngợi, thán phục và tự nhủ điều gì sâu xa lắm.

Đó là một vài hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống thường nhật của người lính đảo. Đó là vẻ đẹp tâm hồn và cốt cách Việt Nam “Hạt thóc chia đều, dẫu no dẫu đói, ta bạn vẹn tình, đắng ngọt cùng chia” được thu nhỏ lại. Không cao sang, không cầu toàn, tất cả đều là bình dị, thân quen. Chỉ có lúc ấy, tinh thần đồng đội mới được phát huy, nghĩa tình đồng chí mới nảy nở và sự hiểu biết lẫn nhau lại càng sâu sắc hơn. Người chiến sĩ xa nhà, xa quê hương, ai cũng thiếu thốn tình cảm ruột thịt. Những lúc đồng đội quây quần bên nhau thì khoảng trống ấy được bù đắp...”.

- Bí quyết nào mà Tú viết “ngọt” thế?- Tôi hỏi.

Tú cười hiền:

- Có bí quyết gì đâu anh! Em thấy tình đồng đội trên đảo thế nào thì em viết tự nhiên như thế, anh ạ!  

Yêu văn chương, thích làm thơ và từng sáng tác rất nhiều bài thơ dạt dào... như nước biển Đông, nhưng những chiến sĩ Trường Sa và Nhà giàn DK1 chưa bao giờ có ý định ra một tuyển tập thơ nào cả. Họ cũng chưa bao giờ nghĩ tới mình trở thành “nhà thơ” theo ý nghĩa đích thực của từ này. Bởi một điều thật giản dị: Trong những phút giây lắng đọng nhất của tâm hồn, họ muốn trải lòng mình với tình yêu biển đảo quê hương, với những người đồng đội đang ngày đêm canh giữ biển trời, với cha mẹ, người thân và bạn bè ở nơi đất liền.

Đưa cho tôi cuốn sổ tay chép rất nhiều bài thơ hay, trong đó có cả một số bài thơ tự mình sáng tác, Chuẩn úy Mã Văn Quyền không giấu nổi niềm vui khi anh bộc bạch với tôi rất thật lòng:

- Em làm thơ được đăng báo tường và được đồng đội trên đảo đọc, thế là toại nguyện rồi. Vì mỗi câu thơ như một tiếng lòng của người trong cuộc. Khi người khác đọc thơ mình là họ đang thành tâm sẻ chia với nỗi lòng tác giả, đúng không anh?

Còn Thiếu tá Trang Hải Âu thổ lộ:

- Tôi rất yêu thơ. Tôi thích làm thơ. Dù tôi không phải là nhà thơ. Thơ đối với tôi không phải là sự mỹ miều, phù phiếm. Thơ là người bạn tri âm, tri kỷ và là duyên nợ của tôi với tình đời. Dẫu những vần thơ tôi viết chưa hay, nhưng đó là những dòng tự sự của lòng tôi trước những gì tôi được chứng kiến trong cuộc sống muôn màu, muôn vẻ quanh mình. Trong những lúc lắng lòng, trái tim tôi muốn hòa cùng nhịp điệu của thơ ca. Muốn cùng thơ ca làm cho cuộc sống thêm đẹp, con người thêm yêu, thêm quý và cảnh vật thêm xinh. Nếu ai đó khi đọc xong có lời bình là thơ tôi chưa hay thì tôi vẫn vui lòng. Bởi tôi biết, người đó có năng lực cảm thụ thơ ca. Và khi ấy, tấm lòng tri ân với thơ của tôi phần nào được toại nguyện.

Vâng! Có thể anh Quyền, anh Âu và những người lính đảo làm thơ chưa hay, thậm chí có ai còn nói đó là những bài “văn vần”, song các anh đã mang trong mình tâm hồn bay bổng của một thi sĩ. Dù nắng, gió Trường Sa có thể làm da dẻ của các anh mỗi ngày thêm sạm lại, nhưng tình yêu dành cho thơ, nỗi khát vọng được giải tỏa lòng mình qua những câu thơ của các anh luôn sáng vằng vặc như những đêm trăng thanh gió lộng tỏa khắp biển, đảo quê hương.

Tôi không sợ quá lời khi gọi các anh là những “thi sĩ” của đại dương. Bởi giữa bao la biển cả, quanh năm suốt tháng xa nhà, nếu trái tim ai cũng trơ như đá, lạnh như băng và nếu tâm hồn không biết vấn vương, rung động trước vẻ đẹp lung linh của cuộc sống, thiên nhiên thì cuộc đời này thật đơn điệu, tẻ nhạt và chống chếnh biết bao. Viết đến đây, tôi bất chợt nhớ tới 4 câu thơ trong bài “Lính đảo” của chiến sĩ Lưu Đình Quang (đảo Sinh Tồn Đông) đăng trên tờ báo tường Tiền Phong ra ngày 26-3-2010: “Ai dò được nông sâu/ Lòng biển xanh thăm thẳm/ Mới hiểu được nông sâu/ Giữa trái tim người lính”.

Có ra đảo xa mới hiểu tình người. Có đọc thơ lính đảo mới thấu được nỗi lòng của những người xa quê. Những vần thơ ấy cho dù “Mộc mạc thôi mà sao tôi bồi hồi”- như một câu hát quen thuộc của nhạc sĩ Phú Quang.

Bài và ảnh: NGUYỄN VĂN HẢI

Khát vọng Trường Sa (bài 2)

Khát vọng Trường Sa (bài 1)

Bài 4: Khát vọng từ quần đảo yêu dấu