“Nhà trẻ em núi Tản Viên” là địa chỉ quen thuộc của những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn ngụ tại xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, Hà Nội. Đằng sau tiếng gọi “mẹ” của 20 người con dành cho bà Phùng Thị Toàn là cả một câu chuyện cảm động về tình mẫu tử - tình mẫu tử không từ công sinh thành.
Ngày chủ nhật, mái ấm của mẹ Toàn trở nên đông vui và tràn ngập tiếng cười. Vừa dừng xe trước cổng nhà, lòng tôi thấy ấm lại khi nghe thấy những tiếng gọi “mẹ ơi” tíu tít. Hiện lên trước mắt tôi là hình ảnh một người đàn bà tuổi gần 60, dáng người nhỏ nhắn, khuôn mặt hiền, đang cùng bọn trẻ trồng rau và trò chuyện rộn rã trong mảnh vườn trước hiên nhà.
Trăm ngàn gian khó buổi đầu...
Ngay khi “Nhà trẻ em núi Tản Viên” được thành lập (tháng 7-2000), bà Phùng Thị Toàn (xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, Hà Nội) đã không ngần ngại nhận chăm nom bọn trẻ. Bởi một lẽ, bà muốn làm từ thiện giúp người. Và đây chính là thời kỳ khó khăn nhất đối với người mẹ 60 tuổi. Một tay lo cho 20 đứa con thơ không cùng huyết thống - mọi chuyện chẳng hề đơn giản như bà đã suy nghĩ.
 |
| Mẹ Toàn và các con đang chăm sóc vườn rau. |
Hai mươi người con của mẹ Toàn là hai mươi mảnh đời, hai mươi số phận, hai mươi tính cách riêng. Có đứa thì bố mẹ đều đã mất cả, đứa thì bơ vơ sau khi bố mẹ ly hôn, đứa thì bố mẹ ốm đau, bệnh tật không thể chăm sóc… Đặc biệt, nỗi nhớ gia đình khiến các em khó hòa đồng trong môi trường mới. Ban ngày thì bận bịu việc nhà, buổi đêm lại thức khuya kéo chăn đắp cho từng đứa trẻ. Ngồi nhìn các con ngủ mà bà Toàn ứa nước mắt. Nhiều đêm, bà thức trắng đêm với bao nhiêu là suy tư, trăn trở. Khuôn mặt từng đứa, hoàn cảnh không may mắn của từng đứa, tính nết từng đứa một… cứ hiển hiện trong tâm trí bà. Nghĩ lại, bà Toàn buồn nhất là chuyện về bé Sơn. Nó lì lợm, chẳng chịu nghe lời bà, thậm chí còn cãi lại bà xoen xoét nữa. Liệu bà có thể trở thành mẹ của bọn trẻ được không? Bà có thể chăm sóc tốt cho mấy chục đứa trẻ xa lạ ấy không? Làm thế nào để xoa dịu bớt nỗi đau và hàn gắn những rạn nứt trong lòng lũ trẻ này?... Những câu hỏi ấy khiến bà không khỏi băn khoăn, trằn trọc. Những đứa trẻ hiếu động, lại có tuổi thơ không được bình yên, thật không dễ để mẹ Toàn có thể gần gũi, cùng các em chia sẻ, bộc bạch. Thế nhưng, bằng sức mạnh của trái tim nhân hậu, bà đã “kết nối” chúng lại, mang đến cho chúng một gia đình thực sự.
Đôi mắt rưng rưng, nhìn xa xăm vào khoảnh vườn đầy nắng, mẹ Toàn kể: “Lúc mới nhận chúng về, đứa nào cũng gầy guộc, nhếch nhác, cứ khóc hoài, rồi ngơ ngác, chỉ chờ tôi đi vắng để trốn về nhà. Nhiều khi tôi phải chạy bộ theo chúng đến vài cây số, phải dỗ dành mãi, chúng mới chịu theo tôi về”. Đứa lớn nhất đang học lớp sáu, đứa bé thì mới lên ba. Ngày qua ngày, vừa tay xách nách mang đứa trẻ lên ba, vừa giặt giũ, cơm nước, vườn tược… khiến bà bận tối mắt, tối mũi. Mặc cảm và tự ti, đứa nào đứa nấy cứ im thin thít, khép kín lòng mình. Mẹ Toàn còn nhớ ngày ấy, con bé Thương cứ thẫn thờ, ngồi co ro một góc nhà; cu Tún chẳng nói chẳng rằng, suốt buổi ra vườn đuổi bắt châu chấu với cào cào; bé Ngọc thì khóc thét lên mỗi khi thấy người lạ… Tất cả những khó khăn ấy dường như là để thử thách sự kiên nhẫn của bà. Dù nhiều khi chúng bướng bỉnh đến phát bực, nhưng bà Toàn vẫn không một lần quát mắng hay nặng lời với bọn trẻ. Không nản lòng, mẹ Toàn vẫn dịu dàng, thậm chí bà còn nói nhiều hơn, hỏi nhiều hơn… dù không nhận được câu trả lời. Bà hết lòng quan tâm đến bọn trẻ, thường xuyên vỗ về và không bỏ lỡ cơ hội nào để gần gũi bọn trẻ, mong hiểu được tâm lý chúng.
“Tình yêu thương sâu sắc của một người mẹ dành cho các con, sẽ khiến bọn trẻ tin tưởng, mở lòng với mình và hoà đồng với mọi người”, mẹ Toàn vẫn thường nhủ vậy để cố gắng vượt qua những khó khăn. Thế rồi, ông trời đã không phụ công người đàn bà ấy. Giờ đây, hễ có ai hỏi thăm về lũ trẻ, mẹ Toàn tự hào lắm. Mắt mẹ sáng, toát lên một niềm vui khôn xiết: “Lũ trẻ bây giờ đều gọi tôi là mẹ cho gần gũi. Chúng ngoan, chịu khó học và nghe lời tôi lắm. Đi học về, mấy đứa lớn còn giúp tôi nhặt rau, nấu cơm; ngày chủ nhật, mấy mẹ con lại tưới rau, dọn cỏ vườn…”.
Niềm hạnh phúc bình dị - tiếng gọi “Mẹ ơi”
Đằng sau tiếng gọi “mẹ” tưởng như rất đỗi bình dị ấy là một câu chuyện cảm động về tình mẫu tử của người mẹ và những đứa con không do mình mang nặng đẻ đau. Tiếng gọi ấy cũng chính là kết quả sau biết bao khó khăn trong buổi ban đầu; là phần thưởng xứng đáng với tâm trí, sức lực mẹ Toàn trong suốt thời gian qua.
 |
| Mẹ Toàn dạy các con chơi chuyền. |
Hạnh phúc với mẹ Toàn thật bình dị. Đó là tiếng gọi “mẹ ơi” hồn nhiên của con trẻ, là những câu chuyện ngô nghê mà chúng mang từ lớp học về nhà, là những tiếng cười trong veo khi lũ trẻ chơi trò bịt mắt, là điểm 10 tươi mới trên những trang vở… Bà Toàn vẫn không quên những ngày đầu mới đến, dù có cậy răng, chúng cũng không nói một lời, chỉ lừ lừ, tròn xoe mắt nhìn bà. Mấy thằng lớn hay chí choé với nhau, bà gọi ra bảo ban, nhắc nhở, chúng cãi lại, rồi ấm ức khóc đòi về nhà. Và rồi, sự bền bỉ và tình yêu thương chân thành của mẹ Toàn đã sưởi ấm những tâm hồn bé nhỏ đã chịu nhiều thiệt thòi. Ngôi nhà trống trải, giờ đây đã trở nên ấm cúng. Những con người vốn chẳng hề quen biết giờ đều là những người con của mẹ.
Ngôi nhà ấy, giờ đã thực sự trở thành gia đình thứ hai của những đứa trẻ bất hạnh. Ở nơi ấy, lũ trẻ đã có mẹ hiền hằng ngày chăm lo, dạy dỗ; có những người anh, chị, em cùng sẻ chia những buồn, vui trong cuộc sống. Ở nơi ấy, chúng được đến trường, được ăn no và ngủ ấm. Những khi rảnh rỗi, mẹ Toàn và các con lại quây quần bên nhau, để rồi, những câu chuyện về học tập, về cuộc sống, về những ước mơ… cứ kéo dài bất tận. Bà Toàn vẫn nhớ như in lần đưa cô con gái cả, bé Nguyễn Thị Ngân, bị ốm nặng xuống Hà Nội khám. Hai mẹ con đứng đợi xe khách ngoài đường cái, lớ ngớ thế nào mà đi mấy lượt mới tới bến xe Mỹ Đình, rồi lại vòng vo cả buổi mới tìm được bệnh viện Bạch Mai.
Chăm chú nghe mẹ kể lại chuyện năm xưa, bé Ngân mắt nhòa lệ, em ghé tai tôi thủ thỉ: “Thỉnh thoảng mẹ em cũng giận, rồi quát bọn em đấy. Song chúng em ai cũng biết mẹ tốt và thương bọn em nhiều lắm. Em cũng rất thương và biết ơn mẹ nên luôn nhắc nhở các em phải biết vâng lời mẹ, chịu khó học tập để mẹ được vui lòng…”. Tất thảy có đến 20 người con, nhưng mẹ Toàn không quên sinh nhật đứa nào. Mẹ nhớ sở thích, ước mơ của từng đứa. Nào là thằng Tuấn thích đá cầu, con Hoa muốn làm cô giáo dạy nhạc, thằng Sơn mê bóng đá, cái Thương “mập” là chúa ghét mấy chuyện yêu đương nhăng nhít… Con gái thì được bà bện tóc, dạy nhảy dây, chơi chuyền; con trai thì bà dạy đá bóng, chơi cờ. Một mái ấm đã được hình thành như thế. Hai từ “mẹ em”, “nhà em” tự lúc nào đã được phát ra từ tâm thức và trở thành niềm tự hào, hãnh diện của các em, mỗi khi có ai đó hỏi về gia đình mình.
“Các con khôn lớn, em sẽ về”
Mười năm xa nhà, dành sự lo lắng và chăm sóc cho những đứa con không do mình dứt ruột sinh ra, khi mọi người ngạc nhiên, thắc mắc “Việc nhà mình thì không lo, lại đi lo việc thiên hạ”, bà vui vẻ đáp lại: “Ông nhà tôi vẫn còn khoẻ mạnh lắm; các con tôi đều đã trưởng thành và có gia đình riêng cả rồi nên tôi cũng yên tâm. Nếu mình về, bọn trẻ ở đây biết dựa vào ai. Tội nghiệp chúng!”. Ngoài việc làm mẹ của 20 đứa trẻ, bà Toàn cũng có một mái ấm hạnh phúc riêng. Nơi ấy có chồng và ba người con. Do chiến tranh, cưới nhau được vài hôm, chồng bà gia nhập quân đội, vào Nam chiến đấu. Đến khi người con trai út lên 3 tuổi, chồng bà mới về. Hai người tần tảo sớm hôm, nuôi ba người con ăn học nên người. Hiện nay, anh con trai cả làm cán bộ xã, cô con gái thứ làm giáo viên, còn cậu út theo nghề cơ khí.
Khi mới nhận chăm nom bọn trẻ, chồng và con mẹ Toàn đã nhiều lần khuyên bà nên giao lại công việc này cho người khác. Bởi theo họ, bà đã đến tuổi cần được nghỉ ngơi. Tuổi bà đã cao, sức đâu ra mà chăm lo được cho 20 đứa trẻ. Để thuyết phục bà, có lần, ông đã viện ra lý do gia đình sắp nuôi ong, làm vườn, cần bà về phụ giúp. Với lại có bóng dáng đàn bà, nhà cửa bớt quạnh hiu. Mỗi lần như thế, bà lại nhẹ nhàng thuyết phục chồng: “Các con khôn lớn, em sẽ về”.
“Dần dà, ông ấy và mấy đứa con tôi cũng đã xuôi. Sau này ông ấy và các cháu còn động viên tôi gắng chăm lo bọn trẻ cho chu đáo”- mắt ánh lên niềm vui, bà bộc bạch.
Tuy là người nông dân chân lấm tay bùn, không giỏi chữ nghĩa, nhưng bà Toàn luôn tâm niệm rằng, chỉ có học tập chăm chỉ thì mới có được tương lai tươi sáng. Thế nên, bà thường lấy gương 3 người con đẻ của mình để nhắc nhở các con chuyện học hành. Không phụ công ơn mẹ, bé Ngân đã thi đỗ vào trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây. Cô sinh viên ấy bước vào giảng đường sư phạm với bao ước mơ và hoài bão của tuổi mới lớn. Hành trang cô luôn mang theo bên mình là những bài học mẹ dạy. Tình yêu và niềm tin của mẹ là động lực để em vững bước trên đường đời. Hai cô con gái Hân và Ngọc cũng luôn đứng trong tốp những học sinh giỏi của trường. Điều đó khiến bà tràn đầy hy vọng. Ông Đinh Văn Ninh, Bí thư chi bộ xã Tản Lĩnh đã nhiều lần tới nhờ cậy bà, vì lo bà về nhà thì sẽ không còn ai chăm lo cho những đứa trẻ. Tâm nguyện lớn nhất của mẹ Toàn là được chứng kiến 20 người con trưởng thành, xây dựng gia đình hạnh phúc. Biết là không thể ở bên và lo lắng cho bọn trẻ suốt đời, nên bà Toàn luôn dặn dò các con phải đoàn kết, yêu thương và đùm bọc lẫn nhau như anh em một nhà.
Ngước mắt lên tường, đồng hồ đã điểm 5 giờ chiều. Bà Toàn đứng phắt dậy: “Muộn rồi, tôi phải nấu cơm cho lũ trẻ đây. Cu Kiên hay đòi ăn sớm lắm. Đi chơi về thấy đói bụng mà chưa có cơm cho nó ăn thì khổ với nó”.
“10 năm ròng với 20 đứa trẻ, khó khăn không ít, có những lúc tưởng chừng không thể vượt qua, nhưng chính sự kính trọng, tình thương yêu và tiếng “mẹ” ngọt ngào của lũ trẻ đã tiếp thêm cho tôi nghị lực. Có lẽ, bọn trẻ chính là món quà vô giá mà cuộc sống đã ưu ái ban tặng cho tôi” - trước lúc chia tay, mẹ Toàn đã tâm sự với chúng tôi như vậy.
Bài và ảnh: Nguyễn Oanh