Kỳ 2 : Trở về quê hương

QĐND - Trong những cuộc gặp gỡ, chia tay, tiễn biệt ấy, Thanh Xuân lại được nghe những lời ca, tiếng hát sôi nổi, lạc quan. Bà nói, trong các bài hát được nghe trong những dịp đó, giai điệu thiết tha, và đặc biệt là ca từ của “Bài ca hy vọng” (của nhạc sĩ Văn Ký) đã có sức lay động, thôi thúc ý chí con người vươn lên mạnh mẽ: “Từng đôi chim bay đi tiếng ca rộn ràng/ Cánh chim xao xuyến gió mùa xuân/ Gửi lời chim yêu thương tới miền Nam quê hương/ Nhắn rằng ta ngày đêm mong nhớ…”.  

Thời gian đang là sinh viên đại học Sư phạm ngành Hóa, Thanh Xuân đã 6 lần làm đơn xung phong trở về quê hương nhưng cả 6 lần đều không được chấp thuận. Các cán bộ tiếp nhận hồ sơ đều có câu trả lời khá giống nhau: “Để rồi chúng tôi tính…”. Song, Xuân biết lý do vì sao mình không đạt theo các yêu cầu bộ phận tuyển người; vì sức khỏe của mình kém, chỉ nặng có 38 cân rưỡi, trong khi tối thiểu phải có cân nặng 42kg…

Tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tháng 8-1965, Thanh Xuân được nhà trường giữ lại làm cán bộ phòng tổ chức. Nung nấu ý chí trở lại quê hương tham gia chiến đấu, Xuân sắp xếp thời gian vào các buổi sáng, chiều tập thể dục, nâng cao thể lực.

Hơn nửa năm sau, vào một buổi sáng thứ hai đầu tuần, một cán bộ của cơ quan tình báo Quân đội đến trường tuyển người. Hôm ấy, đồng chí trưởng phòng đi vắng, trong phòng chỉ còn một mình Xuân. Xuân thay mặt lãnh đạo phòng tiếp khách. Sau một vài câu chuyện đối đáp xã giao, cách nói chuyện, tác phong cùng với thông tin tự bạch 6 lần xung phong xin đi B không được của Xuân khiến cán bộ nọ chú ý. Qua câu chuyện, người cán bộ rất vui khi biết Nguyễn Thị Thanh Xuân, chính là người cần tìm. Ông thận trọng đưa cho Xuân xem một tấm ảnh chân dung của một phụ nữ. Đấy chính là một người bạn gái của Xuân, quê ở Biên Hòa, cũng đang ở Thủ đô Hà Nội. Khi vừa nhắc thấy người trong tấm ảnh, Xuân nói như reo:

- A! Tôi biết người mà đồng chí đang cần tìm là ai rồi.

Để thực hiện theo đúng nguyên tắc của tổ chức, người cán bộ nọ “hợp đồng” với Xuân, xem như không có cuộc gặp này. Hẹn hai ngày sau quay lại, sẽ gặp lại Xuân, sau khi đã làm việc chính thức với lãnh đạo phòng và ban giám hiệu nhà trường.

Sau hôm liên hoan chia tay của nhà trường, ngày 26-3-1966, đồng chí Mai Vĩnh (cán bộ đơn vị tiếp nhận hồ sơ, lý lịch) đạp xe đưa Xuân về đơn vị ở khu Nam Đồng. Đến nơi, đồng chí Mai Vĩnh, dõng dạc nói: “Kể từ giờ phút này, đồng chí tên là Nguyễn Thị Kim, tức Hai Kim”. Cũng kể từ đó, bà coi ngày 26-3-1966 là ngày đầu nhập ngũ.

- Đồng chí có hai ngày suy nghĩ. Nếu đồng ý lên đường vào miền Nam tham gia đánh giặc thì đồng chí viết quyết tâm thư!

- “Tôi sẽ viết ngay bây giờ” - không cần suy nghĩ, Hai Kim khảng khái nói nhanh và rõ.

Khóa tập huấn kết thúc, chuẩn bị ngày lên đường, lòng dạ Hai Kim ngày đêm nôn nao. Vậy là sắp phải xa Thủ đô yêu dấu, xa những kỷ niệm ấm áp tình người. Mới ngày nào mà giờ đây đã 13 năm có lẻ được sống trên miền đất thân thương…

Và rồi ngày đó cũng đã đến, ngày 1-4-1967, Hai Kim tạm biệt Hà Nội, lên đường. Xe chạy ra hướng đường Nam Bộ (nay là đường Lê Duẩn), qua công viên Thống Nhất, ngã tư Vọng và khu Giáp Bát, nơi có mái trường bổ túc công nông, với những hàng cây xà cừ rợp bóng mát thân quen. Mới đó mà đã hơn chục năm, thời gian trôi đi nhanh quá, càng nghĩ, Hai Kim càng thấy mình phải hành động nhiều và nhanh hơn nữa… Ngồi ở khoang sau, một vài lần nhìn ra ngoài, Hai Kim thoáng giật mình vì suýt bị người quen nhận ra (chỉ huy đơn vị nhắc phải tuyệt đối giữ bí mật cho chuyến đi trở về này). Từ Thường Tín vào đến Vĩnh Linh, xe chở Hai Kim gặp rất nhiều đoàn bộ đội, thanh niên xung phong cùng đồng hành về hướng Nam, khí thế thật rộn rã…

Sau một ngày nghỉ lại Vĩnh Linh, sáng hôm sau, chỉ huy đơn vị nhắc chuẩn bị đêm nay vượt sông Bến Hải. Bà nhớ hôm ấy là ngày 12-4. Theo quy định của ngành không được viết nhật ký, nên trong thời gian nghỉ lại ở bờ Bắc sông Bến Hải, bà cố nhớ lại những chặng đường đã qua. Bà bảo, bà rất nhớ những dấu mốc quan trọng của cuộc đời tham gia kháng chiến, hoạt động cách mạng của mình: Được kết nạp Đảng đúng vào dịp kỷ niệm 59 năm ngày sinh của Bác; nhập ngũ vào dịp 35 năm sinh nhật Đoàn và hôm nay, ngày 12-4, đúng ngày này 5 năm trước, Anh hùng Không quân Quân đội Liên Xô - Thiếu tá phi công Yu-ri Ga-ga-rin được ghi nhận là người đầu tiên của thế giới thực hiện chuyến bay vào trên con tàu vũ trụ , đã hoàn thành một vòng bay xung quanh trong 1 giờ 48 phút, thì bà cũng thực hiện chuyến vượt sông lịch sử vào chiến trường. Tự hào lắm chứ. Hai Kim tự nhủ, mình cũng phải phấn đấu như Anh hùng Ga-ga-rin…

Trận chiến mới đầy hiểm nguy, căng thẳng

… Tảng sáng hôm sau, ra khỏi bìa rừng bên bờ Nam, Hai Kim được một tổ trinh sát phía Nam (4 người) đưa lên quốc lộ 1. Gần đến một quả đồi sát quốc lộ, người tổ trưởng tên Hồng, nói: “Lên đến đỉnh đồi trước mặt, chị mở nón ra, là báo hiệu chúng ta chia tay. Từ đây đi vào trong kia, tất cả mọi chuyện chị phải tự lo liệu…”. Nghẹn ngào cám ơn người tổ trưởng trinh sát, Hai Kim thấy cổ họng mình nghẹn đắng.

Sau ba chặng xe đò, trong vai đi tìm người thân đi lính nhưng không gặp, Hai Kim tìm đến sân bay Phú Bài (Huế), mua vé vào Sài Gòn. 

Đến sân bay Tân Sơn Nhất lúc 7 giờ tối, Hai Kim thấy Sài Gòn mênh mông rộng lớn quá. Năm 1947, bà có lên Sài Gòn một vài lần, giờ đây sau 20 năm, Sài Gòn đã đổi khác, đường phố đủ mọi sắc lính, đầy hiểm nguy. Bà biết, để tồn tại, tìm kiếm tổ chức, xây dựng cơ sở cho hoạt động của mình không hề đơn giản một chút nào. Bà luôn tự nhủ phải hết sức cẩn trọng, cảnh giác, phải mưu trí, khôn khéo…

Bà Hai Kim trong dịp kỷ niệm 30 năm Chiến thắng 30-4.

Người đầu tiên mà bà gặp sau khi xuống máy bay là một tài xế xe xích lô máy tên Cấm, thứ bảy. Thấy bà ngần ngừ trước một nhà trọ định ngủ qua đêm, Bảy Cấm nói đừng vào đấy, hãy về nhà anh ta ở vùng Phú Thọ Hòa, vợ anh ta mới sinh, đừng ngại. Ngủ chung giường với vợ của Bảy Cấm tối hôm đó và qua câu chuyện với chị ta, bà để ý về những cái tên mà vợ chồng họ đặt cho 5 đứa con: Nữ, Dân, Tộc, Hùng, Anh.

Sáng ra, chờ bà ra đến ngoài đầu hẻm, Bảy Cấm khẽ nói: “Tôi thấy chị không phải là người ở đây. Cần gì chị cứ bảo tôi giúp”. Không đợi chị trả lời, Bảy Cấm bộc bạch luôn, trước đây anh ta cũng tham gia kháng chiến, lạc đơn vị, bị địch bắt, rồi được thả, ra tù làm dân, thỉnh thoảng cũng có nhóm họp với một số anh em bạn tù… Bằng nghiệp vụ sắc sảo của mình và cùng với cách nhìn nhận, đánh giá con người, từ “cầu nối đầu tiên” Bảy Cấm, sau một thời gian, bà đã tạo dựng được một loạt các cơ sở ở nội thành Sài Gòn: chị Bảy thợ may ở cầu Kinh, quận 6; bà Chính ở đường Tùng Thiện Vương, chân cầu Nhị Thiên Đường, quận 8; gia đình ông Tư Kim ở đường Tôn Đản, quận 4…

Với phương châm sống gần gũi, chân thành với bà con; có gặp khó khăn, thất bại không được nản chí, cố gắng vượt qua; tập trung, gắng mọi sức lực cho công việc, thời gian đầu hoạt động ở nội đô Sài Gòn, do giấy tờ tùy thân không hợp pháp, để tránh sự theo dõi của đám mật vụ, an ninh ngụy, bà phải thay đổi chỗ ở liên tục, liên tục vắng mặt ở Sài Gòn để ra chiến khu họp, tập huấn, nhận chỉ thị mới… Chính nhờ các cơ sở xây dựng được, mà ngoài hai lần phải nộp phạt vì cư trú bất hợp pháp (không khai báo với địa phương), trong vai là những người thân, người giúp việc của họ…, bà đã qua mắt được kẻ thù. Cũng trong thời gian đi làm người ở, nấu ăn thuê, giặt quần áo…, bà đã thuyết phục, vận động, cảm hóa thành công nhiều thành viên trong các gia đình này.

Những việc làm ích nước

Đã gần 4 năm ở Sài Gòn, chấp hành mệnh lệnh cấp trên, cuốn hút theo công việc nên dù từ nơi ở hằng đêm chỉ cách quê nhà chưa đầy 10km, nhưng bà không một lần gặp lại người thân. Sang năm 1971, cấp trên cho phép bà liên lạc gặp lại gia đình và thông qua bà Chính, bà đã gặp được cha, mẹ. Nhắc lại giây phút gặp gỡ này, bà ngừng lại nhìn tôi hồi lâu, rồi thút thít khóc. Bà bảo, cháu có biết không, đến khi gặp lại, má mới cho tôi hay rằng, con tôi đã chết năm 1959, nghĩa là chỉ 5 năm sau ngày tôi rời xa nó. Nghe má tôi kể mà ruột gan tôi như bị xát muối, thật quá đau thương. Năm ấy, má tôi vẫn bị giặc giam cầm, nhà cửa bị giặc tháo gỡ, ông ngoại phải đưa con tôi sang tạm lánh bên mạn Bà Rịa. Thiếu bàn tay chăm sóc của mẹ, của bà, trong một cơn bệnh nặng, nó đã không qua khỏi… Nghe hung tin ấy, tôi như ngã gục và phải mất vài ngày sau, tôi mới trở dậy, tiếp tục công việc.

Sau biến cố biết tin con, tôi xác định lại, phải thiết lập vỏ bọc hợp pháp cho mình, vì cơ sở mạng lưới đã có rồi, nhưng không được đi lại công khai sẽ rất khó cho công việc. Phải hành động gấp rút, phải nhanh chóng trả thù nhà, đền nợ nước, thời gian không còn nhiều. Tôi về miền Tây, tìm và gặp được thủ trưởng Ba Phấn. Nhưng quá trình làm tờ căn cước tùy thân cho mình cũng thật gian nan, phải mất hơn 3 tháng, có lúc suýt bị mất mạng. 

Có giấy tờ rồi, thủ trưởng Ba Phấn (Nguyễn Văn Phấn, Cụm trưởng Cụm tình báo A33 ở Cần Thơ) giao nhiệm vụ cho tôi trở lại Sài Gòn móc ráp với anh Ba Minh (thượng sĩ Nguyễn Văn Minh, thư ký đánh máy của Văn phòng Bộ Tổng tham mưu ngụy). Đến đây, cũng nhờ khả năng xử lý linh hoạt, nhanh nhạy, tố chất thông minh mà bà đã thuyết phục Ba Minh cộng tác, bởi trước đó, theo bà, Ba Minh đã nhiều lần gửi tài liệu ra song chưa gặp người có khả năng xử lý những “đống vàng” đó. Gặp bà, Ba Minh cũng rất thận trọng, đã “thử năng lực” của bà.

“Lần gặp đầu, Ba Minh cứ ngồi và nói, nói rất nhiều, nói liên tục, pha trộn đủ các lĩnh vực, các chi tiết, những con số trong các báo cáo mà anh ta còn nhớ trong đầu, sau đó hỏi lại tôi: “Nãy giờ tôi nói chị có lĩnh hội được gì không?”. Tôi liền trao đổi lại những ý chính và cả các con số mà Ba Minh vừa đưa ra, nghe được vậy, Ba Minh yên tâm về người mình đang cần tìm” - Bà cười vui, kể lại.

Ban đầu, theo quy ước, Ba Minh hẹn 2 tháng trao tài liệu một lần qua lưới điệp báo H3, sau đôn lên 1 tháng/lần và rồi là 5 ngày/lần. Giải thích điều này, bà cho biết, vì tài liệu nhiều quá và qua theo dõi tình hình chiến sự, Ba Minh biết “hàng” của mình chuyển ra có người biết “xài”. Để tăng tốc “sản xuất”, Ba Minh còn “xin” được trực đêm thay cho bạn bè đồng ngũ, để tranh thủ “làm thêm” trong ca trực…

Với phương châm “làm việc mỗi ngày như là ngày cuối cùng của cuộc đời mình”, chỉ tính riêng với đầu mối Ba Minh, cấp trên đánh giá, Tổ Điệp báo H3 do Hai Kim chỉ đạo đã cung cấp một số lượng lớn tin tức chất lượng cao; nhiều tài liệu còn nguyên bản, đạt độ tin cậy chính xác, đặc biệt trong đó có tin chính xác về khả năng Mỹ không quay trở lại chiến trường miền Nam Việt Nam. “Đó là bức điện mật mà Nhà trắng trả lời Bộ Tổng tham mưu ngụy khi nơi này gửi thư sang cầu viện sau khi quân ta tiến công giải phóng Phước Long ngày 6-1-1975. Nội dung bức điện đó tóm lược gọn là: “Mỹ coi chiến tranh ở Việt Nam đã kết thúc…”- Một tài liệu dạng “quý hiếm”. Bức điện được lưới H3 nhanh chóng gửi ra chiến khu, góp phần quan trọng vào thắng lợi của Chiến dịch Tổng tiến công giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

*
*    *

Một ngày đầu tháng Tám, giữa mùa bông súng trắng, chúng tôi cùng bà về quê bên chồng ở Phước Lâm, Cần Giuộc, tỉnh Long An. Bên những cánh đồng lúa đang lên đòng là những rặng dừa, mù u. Trong buổi báo công với bà con cô bác Phước Lâm, chúng tôi được uống ngụm trà thơm của miền hạ lưu sông Vàm Cỏ, được thưởng thức món mắm đồng thơm lựng cùng nồi canh bông súng ngọt êm. Và, lại được nghe những câu ca nức lòng của bài vọng cổ “Bông súng trắng”:

 “… Nước hố bom trong xanh như trời quê ta trong xanh biêng biếc, từ ngàn xưa không nhạt sắc thay màu/ Hương tràm vẫn bay theo gió lộng ngạt ngào/ Con cá bống vẫn tung tăng giữa trưa hè đớp bóng/ Bông súng nở xòe trắng mặt nước hố bom/ Trời quê ta bao la, đất quê ta bao la/ Có vui không, ơi em gái nhỏ? Giặc Mỹ đã chạy rồi em vui cất lời ca…”.

Vâng, với bà con cô bác quê hương Phước Lâm, giờ đây bà là niềm tự hào của họ, tấm gương cho các thế hệ mai sau, niềm kiêu hãnh của vùng đồng bưng “bông súng trắng”.

Ghi chép của VÕ VĂN DŨNG

Gặp nữ anh hùng tình báo Nguyễn Thị Thanh Xuân (kỳ 1)