Định vị các cột mốc trên biên giới Việt-Trung
- Sai số cho phép của việc đo đạc và xác định các vị trí cột mốc là bao nhiêu?
- Về vị trí xét đoán trên thực địa, không được phép sai. Mốc cắm trên đỉnh núi thì phải xác định chính xác trên đỉnh núi. Mốc thiết kế ở vị trí yên ngựa thì phải xác định đúng vị trí yên ngựa. Tuy nhiên vẫn có sai số đo đạc. Chẳng hạn như sai số về thiết bị cầm tay, dung sai của loại máy này là 10m. Vì vậy loại máy GPS cầm tay chỉ là công cụ tìm kiếm vị trí. Sau khi cắm cột mốc xong, công cụ xác định chuẩn phải là máy GPS hai tần số, sai số của thiết bị này là từ 0,3m (30cm) về mặt phẳng và 0,5m (50cm) về độ cao. Hiện tại đây là thiết bị có độ chính xác rất cao.
- Sai số này so với thế giới?
- Đây là sai số chuẩn mực thế giới. Trong thời gian đo khoảng 4 giờ liên tục với một thiết bị tiên tiến như vậy, chắc chắn số liệu đưa ra chính xác gần như tuyệt đối. Thông thường máy GPS hai tần chỉ cần đo trong hai giờ đã có độ chính xác rất cao. Trong quy phạm của Việt Nam chỉ cần đo 2 giờ là có thể đạt độ chính xác để đo vẽ bản đồ trong nội địa. Chính vì vậy có thể khẳng định độ chính xác của các cột mốc trên biên giới đất liền trong trường hợp Việt Nam và Trung Quốc phối hợp đo tới 4 giờ là rất bảo đảm.
- Có bao nhiêu loại cột mốc?
- Các cột mốc biên giới được chia ra làm 3 loại, mốc đơn là những cột mốc cắm đúng trên đường biên giới, mốc đôi và mốc ba là những cột mốc cắm ở hai bên sông suối của hai phía. Ngoài mốc đơn, mốc đôi và mốc ba ra được hai bên thống nhất đặt ở những vị trí địa hình phức tạp, những chỗ người dân hai bên giao thương đi lại nhiều, dễ có sự nhầm lẫn, tại những chỗ đó tăng thêm mốc phụ. Tổng số hai bên đã cắm được 1.971 cột mốc.
- Xin ông cho biết một số nét cơ bản về lưới định vị chung của hai nước?
- Năm 2000, hai bên phối hợp đo một mạng lưới định vị chung, mỗi bên ba điểm, tổng cộng lưới chung này được xác định bởi sáu điểm. Tại Việt Nam, ba điểm được xác định tại Lai Châu, Hà Giang, Cao Bằng. Ba điểm tại Trung Quốc là Giang Thành, Côn Minh và Quảng Tây.
Trên cơ sở lưới 6 điểm này, hai bên phát triển thành một mạng lưới đo vẽ để thành lập bản đồ song phương, bản đồ sau này thể hiện kết quả PGCM. Tuy nhiên đến giai đoạn PGCM lại xuất hiện thêm nhu cầu, mật độ 3 điểm mỗi bên là không đủ, vì vậy phải tăng dày thêm, cho đến năm 2000, hai bên đo thêm một số điểm nữa, trên cơ sở những điểm đo này, mỗi bên tiến hành xây dựng các trạm định vị để theo dõi quá trình PGCM và đo đạc xác định các cột mốc.
- Hệ thống lưới định vị chung này được định vị dựa vào đâu?
- Đây là lưới khống chế cơ sở được định vị trong hệ thống định vị toàn cầu, mỗi bên có 3 điểm, tổng cộng có 6 điểm. Nó có thể được đo nối với một điểm ở Tây Tạng, một điểm ở Đài Loan hay Xin-ga-po… tức là 6 điểm này được định vị vào hệ thống định vị toàn cầu. Mà hệ thống định vị này là hệ thống động, liên tục được đo đạc hiệu chỉnh.
- Khả năng di dời, dịch chuyển cột mốc có thể xảy ra hay không?
- Nhìn chung khả năng di dời và dịch chuyển cột mốc là rất khó vì trong thực tế, cột mốc hiện nay có đế móng vững chắc và có cốt thép được thiết kế khá hoàn chỉnh. Hơn thế, hiện tại đường biên giới rất rõ ràng, tất cả các cột mốc đều được đo tọa độ bằng máy hai tần, với độ chính xác 0,3m, với độ chính xác như vậy, không thể di dời đi. Đồng thời hai nước đã có thỏa thuận trong chu kỳ khoảng 5 đến 10 năm sau, theo hiệp định quản lý biên giới, hai bên sẽ tiến hành tổng kiểm tra lại hệ thống đường biên và cột mốc. Đối với các cột mốc bị di chuyển do mưa lũ, lở đất thì hai bên sẽ căn cứ vào tọa độ đã đo để khôi phục lại cột mốc đúng vị trí cũ.
- Hệ thống định vị này có tác dụng gì trong việc quản lý trên toàn tuyến biên giới quốc gia?
- Rất nhiều. Trước hết trong đo đạc định vị, xác định tất cả tọa độ, độ cao của hệ thống mốc giới trên biên giới trong một hệ thống thống nhất. Sau này, thông qua hệ thống định vị này giúp việc quản lý hệ thống cột mốc dễ dàng hơn. Nếu có cột mốc nào đó bị mất mát, ta sử dụng ngay số liệu đã đo và hệ thống định vị đã có sẵn khôi phục lại vị trí cột mốc đó. Hoặc trong trường hợp sau này, giả sử có nhu cầu cắm thêm cột mốc ở một chỗ nào đó trên biên giới thì hai bên lại sử dụng chính hệ thống này để đo đạc, xác định thêm tọa độ của cột mốc đó.
- Kết quả trên sẽ được gắn vào các văn bản tiếp theo mà hai bên sẽ ký kết?
- Hiện nay, công tác PGCM trên thực địa đã hoàn thành, hai bên sẽ tiến hành hoàn tất thành quả PGCM, thu thập tài liệu của tất cả các nhóm, trên cơ sở đó biên tập, chỉnh lý để gắn kèm nghị định thư về biên giới và làm bản đồ đính kèm nghị định thư.
Toàn bộ số liệu đo tọa độ, độ cao mốc giới này sẽ làm căn cứ để chuyển chính xác các vị trí cột mốc lên trên bản đồ. Trước đây khi chưa có tọa độ đo chính xác và bản đồ trong cùng hệ thống tọa độ người ta phải chuyển toàn bộ vị trí cột mốc này lên bằng cách là xét đoán. Nay có tọa độ đó rồi, các bên sẽ căn cứ vào đó để nhập thẳng dữ liệu vào bản đồ số, tọa độ đó được thể hiện chính xác trên bản đồ số, đồng thời người ta gắn cho nó thông tin về tọa độ, độ cao. Hệ thống cơ sở dữ liệu này rất thuận tiện trong quản lí toàn bộ hệ thống cột mốc trên đường biên giới.
- Hệ thống này được triển khai ứng dụng trong công tác đo đạc đối với các vùng biển, đảo như thế nào?
- Trên biển, đảo cũng triển khai hệ thống GPS để đo đạc. Tuy nhiên, không thể cắm mốc trên biển được, cho nên trên biển, đảo người ta chỉ có thể phân định đường biên giới dựa vào các điểm cơ sở lãnh hải và xác định các điểm phân chia ranh giới trên biển thông qua tọa độ. Năm 2000 chúng ta đã hoàn thành phân định Vịnh Bắc Bộ cũng dựa vào hệ thống tọa độ này.
Hiện tại, ngoài cửa vịnh Bắc Bộ và trên Biển Đông, Việt Nam và Trung Quốc đang triển khai các đội để tiếp tục tiến hành công việc xác định đường ranh giới trên biển. Hai bên căn cứ vào đường cơ sở, tiến hành đo các điểm cơ sở dọc theo đường bờ biển của mình. Các điểm này cũng được đo trong hệ thống định vị toàn cầu, sau đó căn cứ vào điểm cơ sở lãnh hải này mà hai bên sử dụng công thức phân chia. Ví dụ như phân chia trung tuyến bờ - bờ giữa hai bên hoặc một đường nào đó mà hai bên thỏa thuận để xác định được đường ranh giới phân chia trên biển. Tọa độ các điểm đó được ghi trong một hiệp định hoặc một nghị định thư. Khi hoàn thành, trên hệ thống bản đồ thông tin về các điểm này sẽ được đưa lên. Tàu thuyền khi đi vào vùng đó sẽ biết mình đang ở vị trí nào, có vi phạm đường ranh giới hay không.
- Trên tuyến biên giới Việt Nam – Cam-pu-chia và Việt Nam-Lào chúng ta đã tiến hành công việc này đến đâu?
- Đối với tuyến biên giới Việt Nam – Lào, trên cơ sở lưới khống chế, hai bên đo vẽ thành lập bản đồ Việt Nam - Lào trước đây và phát triển thêm để sử dụng làm căn cứ xác định tọa độ cột mốc trên biên giới hai nước trong giai đoạn tôn tạo tăng dầy cột mốc sắp tới.
Riêng với tuyến biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia, chúng ta vừa hoạch định vừa phân định. Hoạch định tức là phải chuyển vẽ lại đường biên, vừa rà soát lại những điểm tranh chấp, đồng thời thống nhất đường biên từ bản đồ của Pháp chuyển sang bản đồ UTM. Hiện tại, giai đoạn hoạch định trên bản đồ đã gần hoàn tất. Hoạch định đến đâu chuyển cho phân giới xác định vị trí cột mốc. Nhưng do bản đồ phía Cam-pu-chia sử dụng là bản đồ UTM, khác với hệ tọa độ của hệ thống định vị hiện nay, cho nên số liệu định vị bằng máy cầm tay của họ chỉ có giá trị để tham khảo. Còn muốn quyết định vị trí chuẩn cuối cùng, cần sử dụng thêm các biện pháp kỹ thuật khác để hỗ trợ. Ví dụ như giao hội, tức là chọn các điểm địa vật ở xung quanh vẫn còn tồn tại trên cả hai loại bản đồ, sau đó tiến hành đo giao hội để xác định chính xác. Đây là điểm khác biệt cơ bản với đường biên giới Việt – Trung.
- Xin cảm ơn ông!
NGUYỄN HÒA (Thực hiện)