LTS: Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, quân và dân nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đã nêu cao lòng yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng chiến đấu giữ vững nền độc lập, tự do của đất nước Lào. Năm 1971, phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã có dịp đến Lào Ngam - một trong những khu du kích nổi tiếng về chiến đấu kiên cường, bất khuất ở Nam Lào. Nhân dịp kỷ niệm 86 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, Báo Quân đội nhân dân xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc một số trang ghi chép trong “Sổ tay phóng viên” về khu du kích đó từ năm 1971, cách đây đã 40 năm.
*
* *
Đầu năm 1971, khi quân ngụy Sài Gòn bị Quân giải phóng miền Nam đánh dồn dập, đang cuống cuồng tháo chạy khỏi chiến trường Đường 9 - Nam Lào thì tổ phóng viên chúng tôi nhận được bức điện từ Hà Nội gửi vào. Bức điện có nội dung:“Nhờ cơ quan Bộ tư lệnh 559, tìm cách đi sâu xuống vùng Sa-ra-van, Bô-lô-ven. Cố gắng đến và viết về vùng căn cứ du kích Lào Ngam, cao nguyên Bô-lô-ven”. Làm thế nào đi đến Sa-ra-van, Bô-lô-ven bây giờ? Anh Si - Phó tư lệnh Đoàn 559 gợi ý cho chúng tôi: “Các đồng chí sang bên Đoàn chuyên gia Nam Lào, tìm gặp anh Ích, Phó chính ủy Đoàn, nhờ anh ấy giúp cho”.
Anh Nguyễn Văn Ích chăm chú lắng nghe chúng tôi, rồi mỉm cười, nói vui: “Số các anh đỏ thật, hai ngày nữa, tôi và một số anh em lên đường đi họp hội nghị chuyên gia 6 tỉnh Nam Lào ở Sa-ra-van. Các anh đến đây đi cùng chúng tôi. Bảo đảm nhanh chóng và an toàn!”. Mừng quá, chúng tôi đeo ba lô sang luôn nơi ở của anh Ích, nằm chờ.
1. Từ bản đến bản: Đường đi trong dân
Trước giờ lên đường, anh Ích mới giới thiệu với chúng tôi những người cùng đi. Ngoài anh Ích, đoàn còn có anh Sơ (có tên Lào là Văn Đi), anh Phan Hồng Châu - cán bộ tuyên huấn (nguyên là chính trị viên một tiểu đoàn quân tình nguyện Việt Nam) và hai anh là chuyên gia ở cơ sở, nước da đen bóng, mang súng AK, được mọi người gọi vui là “Thượng sĩ Đông Dương”. Các anh đều nói tiếng Lào như người Lào, hiểu rõ địa hình sông, suối, bản làng, phong tục, tập quán của các dân tộc ở Trung Lào và Nam Lào. Bởi vậy, các anh quyết định hành quân xuống Sa-ra-van không đi theo đường giao liên của Đoàn 559 mà đi theo đường tắt, qua các bản làng có nhân dân Lào sinh sống. Tôi hỏi anh Phan Hồng Châu:
- Tại sao hai bạn kia có tên là “Thượng sĩ Đông Dương”?
Châu cười, giải thích:
- Nhiều người được gọi là “Thượng sĩ Đông Dương” chứ không phải chỉ có hai anh kia đâu. Bởi vì hiện nay còn nhiều chiến sĩ quân tình nguyện đã từng chiến đấu ở trong nước, rồi đi làm nghĩa vụ quốc tế giúp bạn xây dựng cơ sở và chiến đấu ở cả Cam-pu-chia, Lào gần hai chục năm rồi mà vẫn chỉ được phong cấp thượng sĩ thôi. Bọn tôi cũng chẳng hiểu tại sao lại như thế. Cũng có anh em thắc mắc nhưng lại tự an ủi: “Được gọi là Thượng sĩ Đông Dương cũng “oai” lắm rồi”!
 |
| Cán bộ quân tình nguyện Việt Nam gặp Phò Cò-lạ-căn (thứ ba, từ phải sang) tại núi Phu Xết. |
Theo lệnh của anh Ích, cả đoàn lên đường. Đi đầu là một “Thượng sĩ Đông Dương”, đi cuối cũng là một “Thượng sĩ Đông Dương”. Tổ phóng viên chúng tôi được xếp đi vào giữa đội hình cùng các anh khác.
Vượt qua một con dốc cao, lá rừng rậm rạp, qua một dãy đồi lúp xúp, chúng tôi đến khu rừng bằng phẳng. Những cây săng lẻ nhẵn vỏ, cao vút, thẳng tắp. Những cây dầu, lá to bằng tai voi rụng xuống trải đầy gốc cây. Lá mạy Lay (mạy nghĩa là cây) mềm mại, nhỏ và dài. Lá mạy Cung đỏ xen lẫn với lá mạy Nhang có những sống lá gân guốc nổi lên màu xanh của lá…
Bỗng có tiếng chó sủa từ phía trước vọng lại. “Thượng sĩ Đông Dương” đi đầu nói với anh Ích:
- Sắp đến bản Nhầy rồi. Ta dừng lại, nấu cơm ăn rồi xin “khôn ven” (người dẫn đường) và chuẩn bị để mai đi tiếp.
Anh Ích đồng ý.
Bản Nhầy là bản khá to. Trong bản có nhiều cây muỗm cành lá xum xuê phủ bóng mát xuống những mái nhà sàn.
Anh “Thượng sĩ Đông Dương” chắp hai tay chào ông Phò bản (Trưởng bản) rồi đưa ra tờ giấy giới thiệu của Quân khu Nam Lào, sau đó nói bằng tiếng Lào, đại ý: Đoàn xin nghỉ lại một đêm và xin cấp một ít gạo mang theo. Ông Phò bản vào lấy một cái chậu nhôm đặt ở giữa sàn nhà, rồi ra đầu sàn nhà gõ mấy tiếng kẻng. Khoảng nửa giờ sau, một số phụ nữ ở các gia đình trong bản đi tới. Người mang theo típ xôi để xuống sàn, người mang bọc gạo nếp đổ vào cái chậu nhôm. Xôi để ăn bữa chiều, còn gạo thì để “phườn Việt” (bạn Việt Nam) mang theo đi đường. Mấy anh trong đoàn nói lời cảm ơn Phò bản, cảm ơn bà con và biếu những người có yêu cầu thuốc phòng sốt rét, kháng sinh hoặc B1, vi-ta-min C v.v...
Sáng sớm hôm sau, chúng tôi nấu cơm, ăn xong thì một người dân Lào được Phò bản phân công dẫn đường đến. Đó là một người đứng tuổi, cởi trần, quấn sa-rông quanh bụng. Ngực, lưng và hai cánh tay xăm nhiều hình vẽ màu chàm. Ông cầm con dao quắm, vừa đi vừa vót những mũi tên tre. Ai hỏi gì, ông chỉ cười, không nói chuyện, bởi nhiệm vụ của ông được xác định rõ ràng là chỉ dẫn đường từ bản này đến bản tiếp sau. Đến đó, ông bàn giao đoàn khách cho người dẫn đường của bản bạn, rồi trở về bản mình.
Với cách đi từ bản này qua bản khác, đến bản nào trời tối thì ngủ lại tại nhà Phò bản. Hơn nửa tháng sau chúng tôi đã đến núi Phu Xết, một ngọn núi cao, đường đi hiểm trở. Từ Trung Lào xuống Nam Lào chỉ có con đường duy nhất là phải vượt qua Phu Xết. Cách đây chưa lâu, khi còn quân địch chiếm giữ Phu Xết, chúng dàn quân ngăn chặn bộ đội Pa-thét Lào và quân tình nguyện Việt Nam cơ động. Ngày đó, ở núi Phu Xết có một ông già tên là Cò-lạ-căn chuyên làm nhiệm vụ dẫn đường cho quân ta qua lại. Ông sống một mình trên núi, ở cơ động trong các hang đá. Có lần, anh Phan Hồng Châu, Chính trị viên Tiểu đoàn 2 quân tình nguyện Việt Nam hành quân qua Phu Xết, bị ốm. Ông Cò-lạ-căn đã nuôi anh gần chục ngày cho đến khi anh khỏi bệnh, mới tiếp tục đưa anh đi tìm gặp đơn vị. Bây giờ, nghe tin ông Cò-lạ-căn vẫn còn làm nhiệm vụ ở đó, anh Phan Hồng Châu mừng lắm. Anh bảo tôi:
- Khi gặp “Phò Phu Xết” (tên anh em gọi ông Cò-lạ-căn), anh nhớ chụp ảnh kỷ niệm và sau này, nhớ tặng tôi một tấm ảnh đấy!
Trưa hôm ấy, tôi đã chụp được tấm ảnh kỷ niệm đó. Qua Phu Xết, chúng tôi đến bản Khăm Pa Nhốt ở phía nam sông Sê Đôn. Từ đấy, chúng tôi đi qua bản Sao Ca-đi, tối hôm sau nghỉ tại bản Bừng Sai-một bản ở ven đường vào Sa-ra-van, nơi họp hội nghị chuyên gia 6 tỉnh Nam Lào.
2. Lào Ngam: Kiên cường, bất khuất
Sau hai ngày dự hội nghị chuyên gia các tỉnh Nam Lào: Sa-ra-van, Tà-ven-oọc, Xi-phăn-đon, A-tô-pơ, Chăm-pát-sắc…, chúng tôi đến khu du kích Lào Ngam. Đồng chí Bun Mạc, chuyên gia quân sự quê ở Hà Nội được phân công giúp đỡ tôi trong chuyến đi này. Đồng chí vừa dẫn đường, vừa làm phiên dịch cho tôi.
Khu du kích Lào Ngam gồm các bản thuộc xã Lào Ngam và các xã xung quanh như Thông Khảm, Mường Thẹ, Noọng Kè, Ổn… nằm trên Đường 16B, nối với Đường 13, là cửa ngõ đi vào Sa-ra-van, Tha Teng và cao nguyên Bô-lô-ven nên có vị trí quân sự quan trọng. Địa hình ở đây có rừng già, rừng lau xen lẫn ruộng và con suối Tà Pung có nhiều mỏm đá nhấp nhô giữa dòng.
Đồng chí Bun Mạc vừa đi vừa kể cho tôi nghe về cuộc đấu tranh kiên cường, dai dẳng của Lào Ngam với địch và chiến thắng mọi âm mưu hiểm độc của chúng.
Từ Đông-Xuân năm 1953-1954, khi quân và dân Việt Nam đánh thực dân Pháp ở Tây Bắc, Điện Biên Phủ thì quân dân Lào cũng phối hợp chiến đấu. Tháng 12-1953, quân tình nguyện Việt Nam và Pa-thét Lào đã giải phóng A-tô-pơ, Tha Teng và Lào Ngam, Thông Khảm, Noọng Kè. Cuối năm 1954, thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ, bộ đội Pa-thét Lào và quân tình nguyện Việt Nam đi tập kết, thì quân địch cho một tiểu đoàn đến đóng chốt ở Lào Ngam để đàn áp phong trào cách mạng. Một số đồng chí đảng viên và cơ sở cách mạng rút vào hoạt động bí mật. Được thể, quân địch thẳng tay khủng bố, kìm kẹp nhân dân, lùng bắt những người tham gia kháng chiến... Không thể chỉ đấu tranh bằng hình thức hợp pháp được nữa, từ năm 1959, nhân dân Lào Ngam đã bắt đầu tổ chức vũ trang đánh địch.
Đồng chí Pha Nít, một trong những cán bộ lãnh đạo khu du kích Lào Ngam kể lại trận đánh đầu tiên ở bản Đông Toọng. Ngày 11-9-1959, 8 tên lính ngụy Viêng Chăn cầm súng cạc-bin và 7 khẩu súng Ga-răng vào bản. Chúng đòi Phò bản phải nộp gạo, lợn, gà cho sếp đồn. Ông Phò bản là người của ta, niềm nở mời chúng lên nhà sàn uống rượu trong khi chờ đợi dân bản mang lợn, gà, gạo đến nộp. Rượu ngon lại được mấy cô gái xinh đến chuốc rượu, 8 tên lính uống đến say mềm. Ngay lúc ấy, anh em du kích ở xã Lào Ngam ập vào dùng dao chặt rẫy, diệt 4 tên ngoan cố, thu 8 khẩu súng. Bốn tên còn lại, quỳ lạy anh em du kích, xin tha chết. Sau đó, nhân dân bản Đông Toọng xóa ngay dấu vết cuộc chiến đấu, khiêng xác 4 tên lính địch lên đồn báo tin cho sếp bốt biết: “Bộ đội Pa-thét Lào về rất đông. Họ phục kích ở đầu bản Đông Toọng, giết lính đồn, lấy súng rồi bắt người còn sống sót đi theo”.
Tên đồn trưởng hốt hoảng hỏi:
- Có phải Tiểu đoàn 2 Pa-thét về không?
Phò bản Đông Toọng làm ra vẻ sợ hãi, đáp:
- Họ nói họ là Tiểu đoàn 2 ở Viêng Chăn về đây, giải phóng Sa-ra-van, giải phóng nhân dân.
Từ đó, địch co lại, không dám đi càn quét, cướp bóc dân nhiều như trước. Đội du kích Lào Ngam có thêm súng, ra sức phát triển lực lượng, tổ chức thêm nhiều trận đánh táo bạo nữa. Đồng chí Xu-van-nhầy mặc giả làm sĩ quan ngụy Viêng Chăn, vào bản Noỏng Bùa, ra lệnh tập trung cả tiểu đội lính của địch lại, để anh em du kích xông vào lấy súng, bắt chúng đầu hàng. Ba đồng chí Xu-băn, Bùa-xây, Xi-phương bí mật đột nhập vào nơi ở của lính bản, rồi bất ngờ khống chế, tước súng địch.
Nhiều bản của Lào Ngam thoát khỏi ách kìm kẹp của địch. Phong trào đấu tranh vũ trang phát triển mạnh mẽ.
(Còn nữa)
Bài và ảnh: Trần Ngọc