 |
|
Vợ chồng Phó chủ tịch UBND xã Pa Ủ với những bao thóc đầu tiên sau khi anh đoạn tuyệt với nàng tiên nâu |
QĐND Online - Lâu nay báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng cứ thêu dệt và “phủ lên” Pa Ủ (huyện Mường Tè) những tấm mền khá đen tối, trì trệ. Vì thế, mỗi khi nhắc đến địa danh này, đến dân tộc La Hủ, người ta lại hình dung đến một vùng nghèo đói, lạc hậu và tụt hậu. Điều này không sai, nhưng nó chỉ đúng với những ai đến với Pa Ủ cách đây một năm. Nay, Pa Ủ dù vẫn còn đói, nghèo, chưa hết người nghiện thuốc phiện nhưng trên bức tranh tổng thể ấy đã bắt đầu loé lên những mảng sáng đầu tiên dù còn yếu ớt lắm. Nhưng chắc chắn, dưới sự chung tay của cả cộng đồng, sự cống hiến không biết mệt mỏi của cán bộ, chiến sĩ biên phòng, của các thầy, cô giáo,… đất “lá vàng” sẽ bật lên những mầm xanh mới và khỏe khoắn vươn cao, vươn xa…
Kỳ 1: Gieo chữ trên đất “lá vàng”
Làm công tác giáo dục ở vùng cao đã khó, gieo con chữ ở nơi dân trí thấp, kinh tế kém phát triển, người dân chỉ trông chờ vào trợ cấp của nhà nước là việc quá đỗi khó khăn. Nếu không có lòng can đảm, sự yêu nghề chắc rằng sẽ chẳng mấy ai chịu nổi những gian khổ ấy mà tiếp tục bám bản, bám học trò để mong sao các em biết đọc, biết viết, để chính những “mầm non” này tìm được cách xây dựng và thực hiện ước mơ.
Những ngày vạch rừng “chuyển” chữ
Thầy Đoàn Thanh Tuyên (quê ở tỉnh Hưng Yên, giáo viên Trường tiểu học Pa Ủ - Mường Tè) là một trong những người có mặt ở Pa Ủ từ những ngày phong trào giáo dục ở đây còn rất yếu. Bức tranh giáo dục ở Pa Ủ bây giờ so với mấy năm trước đã tươi sáng hơn.
Từng được nghe nhiều câu chuyện, xem nhiều hình ảnh về những nhọc nhằn gian khó của giáo viên vùng cao nhưng khi nghe thầy Tuyên kể về những kỷ niệm của ngày đầu gùi chữ lên đất này khiến tôi không khỏi ngỡ như vừa được nghe câu chuyện cổ tích nào đó chứ không phải là những gì mà chính những thầy, cô giáo nơi đây đã trải qua.
Nhớ lại những ngày tháng gian khổ nhưng đầy tự hào ấy, thầy Tuyên bồi hồi: Sau thời gian phục vụ trong quân đội, Tuyên thi vào trường Cao đẳng sư phạm Tây Bắc. Vì tốt nghiệp loại khá nên được ưu tiên phân lên vùng khó khăn và cái duyên với đất “lá vàng” bén dần từ đấy.
“Ngày đó (năm 2002), Pa Ủ vẫn còn rất xa xôi, không chỉ với những người dưới xuôi lên, mà ngay cả với nhiều vị lãnh đạo huyện, nơi ấy cũng còn vời vợi lắm. Đường vào xã chỉ là con đường chuột chạy, cho ngựa thồ với người đi bộ thôi chứ làm gì có đường rộng và đẹp như bây giờ. Vào đây, cách duy nhất là đi bộ. Khi ấy, rừng còn rậm, đi phải luồn dưới tán rừng với lau lách. Thời gian còn ở bộ đội, mình cũng đã rèn luyện qua gian khổ nhưng vẫn thấy con đường vào đây khó khăn gấp mấy lần hành quân huấn luyện. Vắt không có, nhưng ruồi vàng sao mà lắm thế! Khắp chân tay, mặt mũi, chỗ nào cũng bị đốt. Mình bị đốt nhiều đến nỗi mưng mủ, sốt cao, tưởng không trụ nổi. Mãi rồi cũng quen, dần miễn dịch với chúng. Giờ, nó đốt chỉ ngứa vài ngày là khỏi.
Vào đến nơi, nhìn dân bản, nhìn học trò, ghé vào trường, lớp thấy buồn thê thảm, chỉ muốn bỏ về. Bản làng thì xơ xác, bà con hút thuốc phiện nhiều đến nỗi con thạch sùng trên vách cũng nghiện khói thuốc thừa! Đói, nghèo, tiêu điều trong khi trường lớp thì không có, chưa nói gì đến nơi ăn ở của giáo viên” - thầy Tuyên kể.
Nghe anh nói, nhìn bản làng mà tôi thầm phục những con người đã dám hiến mình cho sự nghiệp giáo dục. Nếu không phải là người nghị lực, tâm huyết với nghề, nếu không phải vì tương lai con em người La Hủ, nếu chỉ một chút xao lòng, chắc thầy Tuyên đã không thể bám trụ đất này!
“Vạn sự khởi đầu nan”. Việc quan trọng nhất lúc ấy là dựng trường lớp, vận động học sinh đi học. Cây rừng thì có sẵn nhưng nhân lực thì thiếu. Một mình thầy giáo sẽ chẳng làm được việc gì nên phải nhờ vào người dân giúp đỡ. Vừa mới chân ướt chân ráo lên, nói thì người dân không hiểu, bà con trả lời thì như nói chuyện với người nước ngoài, vận động cả buổi mà vẫn chẳng hiểu người dân nói gì, chán nản nhưng thầy Tuyên vẫn kiên quyết không bỏ cuộc.
Lận rừng cả ngày trời trở ra xã Mường Tè, Tuyên nhờ một thầy giáo người Thái lên làm phiên dịch. Mới ra trường, nhưng lúc đó Tuyên chẳng nề hà, cũng cầm dao, mang dây lên rừng đốn cây, dựng lớp. “Khi ấy làm gì có khái niệm là biết hay không biết. Chỉ là mình có làm hay không. Chẳng biết cũng vẫn phải làm vì đâu có ai làm cho. Cứ lao vào mà làm thôi!” - thầy Tuyên nhớ lại. Giờ đây, mỗi khi trong bản có nhà nào dựng nhà, vẫn nhờ thầy đến làm giúp cái nóc cho làm ăn khấm khá!
Dựng nhà, làm trường cuối cùng cũng tàm tạm. Khó nhất vẫn là khâu vận động học sinh ra lớp. Vốn ngôn ngữ còn hạn chế, kinh tế địa phương quá nghèo nàn, học sinh thích đi nương, thích cầm dao, cuốc hơn là đi học với phấn, bảng. Thôi thì đủ mọi cách: đến nhà đón, đón dọc đường, mua quà “dụ”, nhờ chính quyền… miễn làm sao đưa được học sinh ra lớp. Nhờ phiên dịch mãi cũng không ổn, không biết tiếng của đồng bào thì nói không ai nghe và cũng chẳng nghe được ai nói thì làm sao mà vận động được học sinh ra lớp. Tuyên xin ở chung với một giáo viên người Thái để nhờ thầy ấy dạy cho tiếng của đồng bào La Hủ (vì tiếng Thái và tiếng La Hủ có nhiều điểm giống nhau). Đến nay, thầy Tuyên lại làm phiên dịch cho những giáo viên mới lên.
Nói về kinh nghiệm luồn rừng vào bản, vận động học sinh ra lớp thì anh Tuyên có cả “một bồ”. “Đi bản thì tốt nhất là đừng mang cặp số làm gì cả, vừa bất tiện, lỉnh kỉnh lại không mang theo được nồi niêu. Muốn vận động học sinh ra lớp thì không phải là đi bắt học sinh về mà phải nói làm sao để cha mẹ các em đưa học sinh ra lớp, thế mới bền được”. Mấy câu này là kinh nghiệm đúc kết của bao chuyến vượt rừng bám bản, bám lớp, của những lần vận động học sinh ra lớp cả bằng tiếng La Hủ lẫn tiếng phổ thông của thầy Tuyên.
 |
|
Tương lai không xa, sẽ không còn hình ảnh về trẻ em Pa Ủ như thế này |
Bây giờ đường lên Pa Ủ đã dễ đi hơn nhiều, ở các điểm bản đã có điểm trường. Bà con giúp giáo viên xây dựng nhà ở. Học sinh đi học cũng đã đông hơn, ngoan hơn, ít bỏ học hơn, nhưng giáo dục tại nơi này vẫn còn vô vàn khó khăn. Cuộc sống giáo viên vẫn còn thiếu thốn trăm bề, từ những đồ dùng sinh hoạt hàng ngày đến giáo cụ lên lớp. Tại đây, giáo viên muốn mua vài lạng thịt lợn cải thiện bữa ăn cũng khó. Cả xã chẳng có cái quán nào theo đúng nghĩa. Đồ ăn thức uống, rồi đồ dùng sinh hoạt hầu như đều phải ra xã Mường Tè mua về. Các giáo viên mầm non bám bản mỗi tuần về trung tâm, ra xã Mường Tè một lần để mua đồ ăn dự trữ cho cả tuần. Nếu muốn mua dụng cụ để lên lớp thì chỉ có ra trung tâm huyện! So sánh với những ngày đầu lên đây lập trường, gieo chữ, thầy Tuyên vui vẻ: “Bây giờ thì sướng hơn ngày đó nhiều rồi!”.
“Sờ tu lồ” đi các em ơi!
Để đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục tại xã Pa Ủ, đầu năm 2008, Phòng giáo dục huyện Mường Tè đã ra khẩu hiệu “Tất cả vì con em đồng bào La Hủ thân yêu”. Khẩu hiệu ấy được cụ thể bằng việc mỗi giáo viên trong xã nhận đỡ đầu một gia đình người La Hủ, giúp gia đình này phát triển không chỉ về giáo dục mà cả kinh tế, văn hóa, giáo dục. Đến nay, những giáo viên ở xã đã thực sự trở thành một thành viên trong mỗi gia đình, mỗi thứ 7, chủ nhật hàng tuần, những người con “cán bộ” ấy lại trở về với gia đình thân thương của mình, cùng thái rau cho lợn, tách ngô, giặt quần áo cho các em nhỏ, cùng lo tất cả những việc lớn, nhỏ trong gia đình. Cái gì chưa biết thì học, hỏi, hỏi người này không biết thì hỏi người khác. Mỗi giáo viên phải biết hết thuần phong mỹ tục cũng như những lý, luật của người La Hủ để ứng xử sao cho hòa nhập, để thật sự là một thành viên của mỗi gia đình, từ đó mới mong giúp được gia đình phát triển.
Một chiều thứ 7, chúng tôi đến thăm gia đình anh chị Vàng Mò Chô (bản Pa Ủ). Đây là gia đình đỡ đầu của cô giáo Nguyễn Thị Kim Hải (giáo viên mầm non cắm bản). Cặp vợ chồng trẻ đã hiếm muộn lại không thơm tay, may miệng trong làm ăn này là một trong những hộ nghèo khó nhất bản. Khi chúng tôi đến, chị Hải đang lau mặt, thay quần áo cho đứa trẻ đầu lòng của gia đình. Thấy khách lạ, đứa bé khóc ré lên, ghì chặt lấy tay chị Hải, mới hay nó quý và tin tưởng chị đến mức nào. Hôm nay, vợ chồng anh Chô đi nương chưa về nên chị Hải ở nhà trông con cho vợ chồng anh. Cũng may, nhà anh gần trường nên chị Hải có thể thường xuyên lên trông coi giúp đỡ gia đình.
Nhìn cảnh chị thay quần áo cho cháu bé có thể phần nào đoán được tình cảm chị dành cho cháu. Cũng phải, chị Hải có 2 con ở quê (tỉnh Phú Thọ) cũng chỉ lớn hơn cháu bé này một chút nên tất cả tình thương, nỗi nhớ con chị đều dành cho con của gia đình anh Chô. Đã từ lâu, chị đã coi cháu bé như con đẻ của mình. Mãi gần tối, vợ chồng anh Chô mới đi nương về. Về nhà, cả giáo viên và gia đình chào nhau bằng tiếng La Hủ, nói chuyện thân mật, đầm ấm, cùng làm cơm, nấu nước.
Chị Hải kể: “Mình đã là một thành viên của gia đình nhỏ này, vừa giống một người bạn lại vừa giống một người em gái trong gia đình. Mọi việc hay, dở mình biết đều phải bảo anh chị. Cái gì giúp được thì giúp. Hôm trước, mình mới mua cho cháu bé mấy bộ quần áo, thuốc thang khi ốm đau. Càng nhớ con mình ở quê, mình lại càng thương các em nhỏ ở đây”.
Xẩm tối, chúng tôi lên thăm gia đình ông Ky Mò Gia (bản Pa Ủ) khi cả gia đình đang chuẩn bị bữa tối. Trong đám con của ông tôi thấy có anh Đoàn Thanh Tuyên. Anh Tuyên đang bê củi vào gian bếp nhỏ hẹp. Lại thấy Tuyên đưa mấy đứa trẻ nhỏ đi rửa mặt, rửa chân tay chuẩn bị ăn tối. Nếu không nghe giọng nói và làn da trắng, chắc chúng tôi chẳng thể phân biệt được thầy giáo Tuyên với những người con của gia đình ông Mò Gia.
Tuyên tâm sự: “Mình lên đây tuy là làm công tác giáo dục để bà con phát triển, nhưng muốn làm được điều đó phải giúp bà con phát triển trước đã. Mình hiểu bà con, bà con hiểu mình, cùng chung tiếng nói thì mới làm việc được. Ban đầu cũng gặp nhiều khó khăn lắm. Gia đình coi mình như cán bộ đến nhà chơi, nhiều điểm bất đồng về lý, luật của bà con, ngôn ngữ thì còn sơ sài… mãi mới hòa nhập được đấy. Bây giờ mình như là một thành viên chính thức trong gia đình rồi”.
Rít điếu thuốc lào thật kêu, phả làn khói đục qua kẽ răng vàng khè chòi ra ngoài môi, ông Mò Gia nói: “Thầy Tuyên tốt lắm, chỉ cho chúng tôi cách tra hạt ngô, dạy chúng tôi cách nuôi con lợn, phòng chống dịch bệnh, lại dạy cả chữ cho con chúng tôi nữa. Bây giờ cái gì không biết thì trẻ con hỏi chữ thầy, còn chúng tôi thì hỏi thầy người dưới xuôi họ làm thế nào mà giàu thế?”.
Chẳng biết đó có phải là nghịch lý, nhưng hình như càng nơi đất khó tình người càng tươi xanh. Ở đất này, dù là người ở miền xuôi lên hay người bản xứ đều sống với nhau bằng cái tình mà nhiều tiền cũng không mua được.
Lên đây, tôi được nghe chuyện hy sinh hạnh phúc riêng, vượt khó, bám bản, bám lớp, bám học sinh cho dù bị ruồi vàng đốt phát sốt phải ra trạm xá điều trị đến khi khỏi lại trở vào tiếp tục cuộc hành trình ngược gió cùng con em đồng bào La Hủ như cô giáo Lê Thị Thuyến, thầy giáo Nguyễn Thanh Tuyên, hay kỳ cựu như thầy Phó Hiệu trưởng trường THCS Pa Ủ Nguyễn Anh Tuấn đã xây dựng gia đình tại đất này
Tại trường THCS Pa Ủ, tôi còn được chứng kiến cảnh thầy giáo nhường phòng ở kiên cố cho học sinh. Thầy cô ở nhà tạm. Rồi thầy, cô giáo trích tiền lương lập quỹ mua đồ ăn cho học sinh, giúp các em nấu cơm, vá áo… cùng nói chung tiếng dân tộc, sống với nhau như người một nhà. Tất cả chỉ mong một ngày ở đất này có những người mang bằng cử nhân, tiến sĩ về để giúp đồng bào thực hiện ước mơ bao đời, để đất “lá vàng” không còn đói nữa.
Sáng thứ 2, khi đàn gà của bản vừa dứt tiếng gáy, trên những ngọn cây cao nhất bản, sương núi vẫn vương vấn chưa muốn rời đi, thầy Nguyễn Thanh Tuyên đánh một hồi trống báo rồi như chưa đủ, anh đứng ra đầu bản, bụm tay làm loa, gọi lớn: “Sờ tu lồ đi các em ơi” (Sờ tu lồ tiếng La Hủ là đi học). Lục tục từ những ngôi nhà sàn tiếng trẻ đáp lại “Mồ khô chổ” (đi học thôi).
Bài, ảnh: Khánh Kiên