“Hành trình trở thành công dân Hà Nội của tôi bắt đầu bằng sự lừa lọc, xảo trá và phản bội ở ngay chính tại Tổ quốc tôi. May mắn thay, hành trình đó lại kết thúc với sự thanh thản vĩnh hằng ở đất nước mà tôi đã từng góp phần gây tội ác. Tôi xin tặng tác phẩm này cho thành phố và nhân dân Hà Nội – một thành phố của hòa bình và văn minh nơi tôi tìm được thần dược cho vết thương lòng mà tôi mang theo hơn 40 năm qua...”.

Đó là những dòng đầu tiên trong cuốn hồi ký của một cựu chiến binh Mỹ viết nhân dịp Hà Nội chuẩn bị tổ chức Đại lễ 1000 năm Thăng Long. Trong khi vẫn còn một số người gốc Việt khao khát được trở thành công dân Mỹ thì người cựu binh này chỉ có một ước nguyện là được trở thành công dân Việt Nam trước khi từ giã cõi đời. Tên ông là James Rhodes. Bạn bè thường gọi thân mật là Jim.

Cựu chiến binh Mỹ James Rhodes

Dáng người cao to, bộ râu quai nón lúc nào cũng như muốn che kín hết mặt, khiến những người gặp Jim lần đầu nghĩ ông là người dữ dằn. Nhưng ẩn sau vóc dáng đó là một tâm hồn dịu dàng, cao đẹp của một nông dân miền Nam nước Mỹ. Hơn thế, ông có một tình yêu bao la với đất nước và con người Việt Nam và là người luôn sẵn sàng làm những điều tốt đẹp nhất có thể cho Việt Nam. Đặc biệt, ông có một niềm khát khao bỏng cháy được chào đón Đại lễ “1000 năm Thăng Long” với tư cách là một công dân của Thủ đô Hà Nội.

Chính phủ đã nói dối chúng tôi

Sinh năm 1947, James Rhodes lớn lên khi chiến tranh Việt Nam bước vào giai đoạn ác liệt nhất. Vào giữa thập kỷ 60 của thế kỷ trước, chính quyền hiếu chiến ở Mỹ ráo riết tăng cường các hoạt động tuyên truyền lừa dối về các hoạt động chiến tranh phi nghĩa, về sự sa lầy của quân đội Mỹ tại Việt Nam và tìm mọi cách ép thanh niên nhập ngũ để chiến đấu “chống lại cái ác” đang diễn ra ở Việt Nam. Jim vốn là người không ưa chiến tranh nhưng năm 1966 ông đã bị hệ thống tuyên truyền khổng lồ lừa bịp. Giống khá nhiều thanh niên ở những miền quê khác, ông đã bị đẩy sang chiến trường Việt Nam để chiến đấu theo lời lừa bịp của chính phủ Mỹ lúc đó: “Bảo vệ công lý”.

Ba năm ở Việt Nam, Jim đã được gặp nhiều người Việt Nam và bắt đầu hiểu rõ hơn về cuộc chiến tranh phi nghĩa mà người Mỹ đang gây ra ở Việt Nam. “Tất cả những gì chúng tôi biết về Việt Nam khi chúng tôi còn ở Mỹ đều là giả dối. Không ai từng nói cho chúng tôi biết về Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, rằng chúng tôi chính là những kẻ xâm lược, ngăn cản sự thống nhất của một dân tộc đã từng sát cánh cùng với quân đồng minh trong Chiến tranh thế giới lần thứ II”.-Jim nói.

Năm 1969, Jim bị sa thải khỏi lực lượng không quân Mỹ tại Plei-cu, một phần vì ông đã khởi kiện lên tòa án binh vụ một sĩ quan Mỹ cưỡng hiếp một người giúp việc người Việt Nam, một phần vì ông bắt đầu có các triệu chứng nhiễm độc đi-ô-xin.

Jim trở về Mỹ với tâm trạng phẫn uất: “Đến lúc này tôi không còn hiểu điều gì đã xảy ra với nước Mỹ vĩ đại của tôi, nhưng tôi hiểu tại sao người Việt Nam ghét chúng tôi, bởi chính tôi cũng ghét người Mỹ”.

Hành trình của người bị Tử thần từ chối

Trở về từ Chiến tranh Việt Nam, Jim không hề biết rằng mình đã bị phơi nhiễm đi-ô-xin từ chất thuốc diệt cỏ của quân đội Mỹ. Chính ở Plei-cu, ông còn chứng kiến lính Mỹ xử lý những thùng phuy đựng hóa chất. Nhiều người còn dùng những vỏ thùng đó làm bồn tắm mà không hề biết đến hậu quả của nó bởi chính cấp trên của họ nói rằng, các thùng hóa chất đó chỉ có tác dụng với cỏ và an toàn với người.

Những trận ốm bắt đầu hành hạ ông từ năm 1969. Ban đầu, mọi người trong gia đình đều cho rằng ông ốm là do uống quá nhiều rượu. Đến khi ông bỏ rượu thì mọi việc bắt đầu sáng tỏ dần. Huyết áp tiếp tục biến động thất thường, kéo theo những cơn đau đầu dai dẳng, có khi kéo dài đến 36 giờ đồng hồ. Thị lực của ông cũng suy giảm nghiêm trọng. Một người bạn của Jim đã gửi mẫu tóc của ông tới phòng xét nghiệm hiện đại nhất của Mỹ ở Maryland. Kết quả xét nghiệm thật bất ngờ khi chỉ là một câu hỏi: “Người có mẫu tóc này vẫn còn sống thật sao?”.

Đến khi trên cơ thể Jim mọc lên 14 khối u, tất cả các bệnh viện, kể cả những trung tâm chuyên dành cho cựu chiến binh đều từ chối điều trị cho Jim bởi chi phí quá lớn. Tất cả những khiếu nại của gia đình Jim gửi tới chính quyền và Bộ Cựu chiến binh Mỹ đều bị từ chối. “Cho đến tận cuối năm 2005, vẫn có một báo cáo nói rằng đi-ô-xin không gây tổn hại cho bất kỳ ai. Và tôi tin rằng lý do khiến Chính phủ Mỹ cứ nói dối như vậy chỉ đơn giản là vấn đề tiền. Họ không muốn trả tiền cho các cựu chiến binh mà họ đã đầu độc, họ không muốn phải có trách nhiệm với bất kỳ ai cả".-Jim phẫn nộ kể.

Cuối những năm 1980, mọi việc trở nên tồi tệ hơn. Các bác sĩ nói rằng Jim sắp chết. Tuy nhiên, ánh sáng cuối đường hầm đã hiện ra khi Jim gặp Charles Springs, cũng là cựu binh Mỹ từng tham chiến ở Việt Nam. Springs từng có các triệu chứng bệnh tật giống hệt như Jim nhưng Springs đã may mắn gặp được một số lương y người Hoa và chữa bệnh bằng cây cỏ. Nhưng thay vì đến Trung Quốc để tìm kiếm phương thuốc cho mình, Jim quyết định đến Việt Nam bởi ông nghĩ đất nước này có nhiều người cũng bị nhiễm độc và lại ở gần Trung Quốc thì chắc hẳn họ phải có cách chữa tốt hơn người Trung Quốc.

Bất chấp lệnh cấm vận, năm 1990, Jim lên đường trở lại Việt Nam tìm kiếm phương thuốc cho mình. Ông bay đến Thành phố Hồ Chí Minh mà không biết mình sẽ được đối xử thế nào. Tuy nhiên, mọi việc diễn ra hoàn toàn khác so với trí tưởng tượng của ông. Ông đã được tiếp đón một cách thân thiện với đầy tình thương và sự quan tâm, trong đó có một đôi vợ chồng già có 5 người con hy sinh trong chiến tranh chống Mỹ.

Sau một thời gian điều trị tích cực bằng sự kết hợp giữa Đông y và Tây y, bệnh của Jim dần thuyên giảm, ông đã được cứu khỏi lưỡi hái tử thần từ con người và cây cỏ Việt Nam. Đất nước Việt Nam trở nên thân thiết với ông từ đó.

“Với tôi, người Việt Nam là những người tình cảm nhất, đáng yêu nhất, biết tha thứ nhất mà tôi từng gặp trên đời này".-Jim tâm sự.

Ông còn cho biết thêm: “Tôi đã bị từ chối chăm sóc ở trên đất nước mà tôi sinh ra, mà tôi chiến đấu vì nó. Thế rồi, tôi lại được người ta dang tay đón nhận, chăm sóc, yêu thương ở đất nước mà người Mỹ, trong đó có tôi, đã từng gây ra bao nhiêu đau thương, tang tóc”.

Ước nguyện cuối cùng

“Vào 6 giờ 30 phút sáng ngày 20-1-2009, tôi - James Rohdes - sẽ có mặt tại Quảng trường Ba Đình và tham dự buổi lễ chào cờ trước Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh để bày tỏ sự kính trọng của tôi đối với con người và đất nước Việt Nam vĩ đại. Tôi hy vọng rằng, ở thời điểm đó, ở bên kia bán cầu, một sự đổi mới ở Nhà Trắng có thể sẽ đem lại một thời kỳ quan hệ hữu hảo thực thụ giữa hai quốc gia Việt Nam và Hoa Kỳ”. Đó là trích đoạn trong thông cáo báo chí mà Jim vừa viết.

Ông dự định sẽ gửi bản thông báo này cho tất cả các hãng thông tấn báo chí trong và ngoài nước với hy vọng ông có thể gửi được một thông điệp có ý nghĩa tới buổi nhậm chức của vị tổng thống da màu đầu tiên của nước Mỹ: Barrack Obama.

Kể từ khi bệnh tình thuyên giảm, sức khỏe được phục hồi, Jim luôn có ý nghĩ rằng Việt Nam là quê hương thứ hai đã sinh ra mình và ông luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp nhất có thể cho đất nước và con người Việt Nam.

Ông tích cực viết nhiều bài báo đăng tại bang Alabama quê nhà để cổ vũ cho quan hệ song phương Việt - Mỹ; ủng hộ vụ kiện của các nạn nhân da cam Việt Nam trên đất Mỹ; ủng hộ vụ kiện của các doanh nghiệp xuất khẩu cá ba sa của Việt Nam khi bị áp thuế chống bán phá giá trên thị trường Mỹ…

Trong những lần về Việt Nam, Jim đều cố gắng làm điều gì đó “tốt” cho Việt Nam, như tặng quà cho trẻ em bị chất độc da cam ở Làng Hữu Nghị, Hòa Bình; kết nối cơ hội hợp tác kinh doanh cho các doanh nghiệp của Việt Nam trên thị trường Mỹ…

Hiện tại, bên cạnh công việc chính là giảng viên tiếng Anh tại trung tâm Apollo, Jim còn rất tích cực học tiếng Việt để có thể sớm đủ điều kiện xin làm công dân Việt Nam. Ông cũng đang cố gắng hoàn thành cuốn hồi ký của mình và sẽ cho xuất bản tại Việt Nam vào dịp Hà Nội kỷ niệm Đại lễ 1.000 năm Thăng Long.

“Với tôi, ước vọng lớn nhất lúc này là có thể được chào mừng Đại lễ 1.000 năm Thăng Long với tư cách là một công dân của thủ đô Hà Nội”, ông nói với một nụ cười rạng rỡ, chân thành như một người Việt thực thụ.

Việt Hùng