Mấy năm gần đây, mủ cao su liên tục tăng giá, nhiều doanh nghiệp ăn nên, làm ra, đời sống người lao động được cải thiện, tạo sự yên tâm, gắn bó với cây cao su. Tuy nhiên, thực tế ở một số công ty, như công ty Cao su Kon Tum, cho thấy còn có nhiều bất cập trong hợp đồng sử dụng đất, thu mua... gây bất bình đối với các hộ dân nhận khoán. Theo đơn “đề nghị can thiệp bảo vệ quyền lợi người lao động” gửi báo Quân đội nhân dân của các hộ dân nhận khoán trồng cao su ở xã Đắc Cấm, thị xã Kon Tum, phóng viên báo Quân đội nhân dân đã tìm hiểu và thông tin đến bạn đọc những nội dung dư luận quan tâm.

Đất của dân trở thành đất của công ty?

Năm 1996, chủ trương phát triển cây cao su trong tỉnh Kon Tum được người dân xã Đắc Cấm hưởng ứng nhiệt tình, nhiều hộ gia đình đã không ngần ngại phá bỏ những vườn cây trên đất của mình để trồng cao su mong có cuộc sống no đủ hơn. Nhưng những dự tính của họ đã không được như ý: Từ một người làm chủ trên chính mảnh đất của mình, giờ họ đã trở thành người đi làm thuê cho công ty Cao su Kon Tum một cách “hợp lý”.

Anh Trần Bá Liên ở thôn 8, xã Đắc Cấm, người có gần 2ha đất góp cho công ty, ấm ức nói với chúng tôi: "Khi mới vận động bà con trồng cây cao su, lãnh đạo công ty Cao su Kon Tum hứa sẽ trả sòng phẳng công khai phá đất cho bà con. Nhưng đến khi chúng tôi "trót" trồng cao su rồi thì họ lẳng lặng làm giấy tờ hợp thức hóa quyền sử dụng toàn bộ diện tích đất của chúng tôi thành đất của công ty”.

Tìm hiểu sự việc, chúng tôi được biết, không riêng gia đình anh Liên mà toàn bộ 121 hộ giao đất trồng cao su cũng rơi vào tình cảnh như vậy. Ông Chủ tịch xã Đắc Cấm - Trần Văn Tùng- than thở: "Cấp ủy, chính quyền chúng tôi vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm: Là nạn nhân vì đã nghe theo lời công ty mà vận động bà con giao đất; còn bị bà con coi là thủ phạm vì đã cùng với công ty cao su "lừa" họ để lấy đất".

Sáng 31-7-2006, sau khi gặp những hộ dân ở xã Đắc Cấm, chúng tôi đến “xin" làm việc với ông Nguyễn Văn Tuấn-Giám đốc công ty Cao su Kon Tum. Ông Tuấn bận họp đến 10 giờ 55 phút, sau đó tranh thủ ít phút gặp và trả lời những nội dung mà người dân quan tâm. Ông Tuấn nói: "Dân mình bây giờ khổ lắm, cứ đòi, cứ hỏi cả ngày, tôi cũng không đủ thời gian để trả lời nữa, tôi bị “ức chế thần kinh” lắm rồi(!). Chỉ vì công ty “tin dân”, nên cho các hộ nhận khoán mượn lại các giấy tờ liên quan về cấp đất để vay tiền ngân hàng đầu tư cho sản xuất, nhưng họ mượn mà không thấy trả. Đến nay, khi giá mủ cao su lên cao thì họ lại đem các loại giấy tờ đó ra để đòi lại đất(?)".

Tuy nhiên, có điều rất lạ là công ty nói cho dân "mượn” các giấy tờ liên quan về đất để dân vay tiền “đầu tư sản xuất” nhưng lại không có lấy một tờ giấy biên nhận hoặc văn bản thủ tục pháp lý nào khác.

Chia sản phẩm thiếu minh bạch?

Chúng tôi được biết, khi triển khai trồng, công ty hứa sau khi khai thác sẽ chia theo tỷ lệ 4/6, tức là hộ nhận khoán được 40%, công ty được 60%. Thực chất, trừ các chi phí phải bỏ ra, mà đáng lẽ người dân không phải đầu tư vào, họ chỉ còn được hưởng khoảng 34 đến 35%. Người dân một nắng hai sương suốt từ 4 giờ sáng đã phải vào vườn cao su cạo mủ, khi nhập mủ họ lại phải chịu thiệt thòi do cách tính thiếu chính xác trong việc xác định hàm lượng DRC của công ty.

Anh Ngô Văn Hùng, ở đội cao su Tân Lập, cho biết: “Chúng tôi so sánh giữa những người thu mua mủ ngoài thị trường với việc nhập mủ cho công ty thấy thiệt thòi quá - nếu cũng với loại mủ ấy, thị trường tính khoảng 30 đến 35 hàm lượng DRC, còn công ty chỉ tính cho tụi tôi có 29DRC, vị chi người dân bị mất đi từ 5 đến 6 đơn vị DRC. Biết thế này thà để đất trồng cao su tiểu điền, muốn bán mủ cho ai thì tùy, không phải lo thiếu hụt sản phẩm hằng năm”.

Không những thế, khi tìm hiểu, chúng tôi còn được biết thêm, giá thu mua của công ty cũng thấp hơn so với giá thực tế thu mua mủ của thị trường, và việc đánh giá, phân loại vườn cây cao su tốt hay xấu để giao chỉ tiêu sản lượng khai thác mủ hằng năm không công bằng do công ty tính theo kiểu bình quân, cào bằng, vườn nào cũng như nhau. Anh Võ Trọng Lượng nói: “Chúng tôi cố gắng lao động mong muốn có cái ăn để đặng nuôi con cái ăn học. Nhưng tình hình như hiện nay, chắc chúng tôi phải bỏ cao su mất thôi. Ai đời vườn cây nhà tôi xấu thế mà họ cũng giao sản lượng là 3.500 lít mủ/năm. Năm vừa rồi tôi phải vắt kiệt cây cao su để lấy mủ cũng chỉ được 2.300lít, vậy là còn nợ công ty hơn 1.000 lít mủ. Đã thế, công ty còn ép chúng tôi cả về giá thu mua; nếu vào thời điểm tháng 6-2006, giá mua 1 kg mủ tạp ngoài thị trường là 17.000đ, công ty mua cho công nhân chỉ có 14.500đ, lại còn bị trừ 15% tạp chất, vị chi còn có 12.000đ/kg. Do đó, năm 2005 vừa qua, gia đình nhà tôi chỉ nhận được 2.500.000đ tiền lương”.

Điều đáng nói hơn là từ khi trồng cao su cho tới nay đã được 10 năm, người dân chưa được cầm trong tay một văn bản mang tính pháp lý quy định cụ thể nào, mà chỉ là hợp đồng miệng. Đây chính là nguồn gốc nảy sinh ra nhiều vấn đề… Mặc dù đã nhiều lần người dân và chính quyền địa phương kiến nghị về vấn đề này thông qua đơn và tiếp xúc trực tiếp, song cho đến nay, những thắc mắc, bức xúc của các hộ nhận khoán vẫn chưa được giải quyết. Vì vậy, đã dẫn đến tình trạng nhiều hộ nhận khoán cao su bỏ cạo, phá bỏ hợp đồng giao mủ hằng năm cho công ty Cao su Kon Tum.

Về việc ăn chia sản phẩm, trao đổi với chúng tôi, Giám đốc công ty Nguyễn Văn Tuấn giải thích: Công ty đã “chi phí toàn bộ” trong quá trình đầu tư, sản xuất.

Ông Tuấn cũng thừa nhận giá thu mua mủ cao su của công ty thấp hơn bên ngoài, do công ty “phải đóng thuế" cho Nhà nước, còn bên ngoài thì không(?). Về thỏa thuận ăn chia sản phẩm theo tỉ lệ bình quân 4/6 (hộ nhận khoán 40%, công ty 60%) nhưng thực tế các hộ nhận khoán chỉ nhận được 35%, trong đó dân còn phải chịu nhiều khoản chi phí bất hợp lý khác, Giám đốc Tuấn khẳng định như vậy là "đúng”, vì công ty tính theo giá thành, tiền đó công ty phải trả ngân hàng, nộp thuế, còn lại để đầu tư tái sản xuất và trả cho lực lượng bảo vệ…

Cuối cùng, ông Tuấn nói: “Có thể một số cán bộ của công ty đã làm sai nội dung hướng dẫn của Ban lãnh đạo về thu mua mủ cao su và các vấn đề khác, ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động, nếu phát hiện được chúng tôi sẽ xử lý kỷ luật”…

Theo ông Giám đốc thì tất cả đều có vẻ “phù hợp”, có điều, sự phù hợp đó chỉ có lợi cho Công ty cao su Kon Tum, còn quyền lợi của người dân hằng ngày làm ra giá trị thặng dư cho công ty thì không được coi trọng, thậm chí còn bị tước đoạt.

Thực hiện các kết luận của Thường trực HĐND tỉnh, để bảo đảm quyền lợi chính đáng cho nhân dân, ngày 19-7-2006, UBND tỉnh Kon Tum đã có Công văn số 1475/ UBND-NC, yêu cầu: Giám đốc Sở Tài nguyên - Môi trường tiến hành kiểm tra rà soát lại các quyết định giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Công ty Cao su Kon Tum trước đây; phối hợp với UBND các huyện, thị xã để bóc, tách cụ thể diện tích đất mà nhân dân đã có các giấy tờ hợp lệ trước khi đưa đất vào trồng cao su với công ty… để khôi phục lại quyền sử dụng đất cho nhân dân. Bên cạnh đó, công văn cũng đề nghị Công ty Cao su Kon Tum “công khai minh bạch” các điều khoản, tỷ lệ ăn chia sản phẩm trong hợp đồng giao, nhận khoán, trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi.

Như vậy, để giải quyết dứt điểm trình trạng mâu thuẫn giữa các hộ dân với Công ty Cao su Kon Tum, chúng tôi đề nghị các cấp chức năng của tỉnh và công ty cần khẩn trương kiểm tra, kết luận vụ việc, không để các hộ dân nhận khoán trồng cao su tiếp tục bị thiệt thòi.

QUANG HỒI - TRUNG KIÊN