LTS: Trong suốt cuộc viễn chinh ở Việt Nam, giới quân sự Mỹ luôn mơ ước được dàn quân đánh nhau với quân chủ lực Bắc Việt Nam trên một mặt trận lớn, chấp nhận cả trường hợp chiến trường rừng núi như ở Điện Biên Phủ. Nắm bắt được “nguyện vọng” này, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã tương kế, tựu kế, mở mặt trận Đường 9 - Khe Sanh để hút và giam chân một bộ phận quan trọng chủ lực tinh nhuệ của Mỹ - Sài Gòn trên chiến trường rừng núi, tạo bí mật, bất ngờ và chia lửa cho các lực lượng cách mạng miền Nam trong tiến trình Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968. Khởi đầu như một đòn nghi binh chiến lược, chiến sĩ Khe Sanh cùng toàn mặt trận B5, đã áp dụng thế trận bao vây, đánh hiệp đồng binh chủng, tiêu diệt một bộ phận lớn sinh lực quan trọng, phá hủy khối lượng lớn phương tiện chiến tranh của Mỹ, ngụy, giải phóng một địa bàn gần một vạn dân. Đường 9 - Khe Sanh là một chiến thắng vang dội cả về chính trị và quân sự của Việt Nam cho đến ngày nay.

Sa bàn Khe Sanh trong Nhà trắng

Từ năm 1962, quân Mỹ và quân Sài Gòn xây một căn cứ không quân - lục quân ở một thung lũng hẻo lánh ở gần khu vực biên giới Việt-Lào, có ý nghĩa chiến lược do nằm gần tuyến vận chuyển “Đường mòn Hồ Chí Minh” nổi tiếng. Ở ngưỡng cửa năm 1968, tư lệnh Mỹ ở Nam Việt Nam, tướng Oét-mo-len, quyết định rằng cần phải “thả mồi ngon” lùa quân Bắc Việt vào bẫy, để buộc tướng Giáp phải đánh nhau theo cung cách quy ước, vốn là sở trường của quân Mỹ. Chiến dịch này mang tên Operation Scotland (1-11-1967/31-3-1968), nhận được sự tán thưởng của bộ sậu “diều hâu” ở Oa-sinh-tơn và Sài Gòn, Tổng thống Giôn-xơn cho đắp sa bàn Khe Sanh ở Nhà trắng và hằng ngày nghe “giao ban” về chiến sự ở đây. Vậy là, trong vành đai sắt dựng trên khu vực giáp giới với miền Bắc và Lào, ngoài hàng rào điện tử Mác Na-ma-ra và hàng loạt căn cứ như Cửa Việt, Cồn Tiên, Đông Hà, Cam Lộ… Khe Sanh được kỳ vọng sẽ là “nam châm” hút quân Bắc Việt, để dùng ưu thế hỏa lực tiêu diệt trong một thế trận “Điện Biên Phủ đảo ngược”.

Giôn-xơn và Râu-xtao bên sa bàn Khe Sanh, tháng 2-1968.

Cả Nhà trắng, Lầu Năm góc và Bộ chỉ huy viễn chinh Mỹ ở Sài Gòn (MACV) tập trung nghiên cứu chiến lệ Điện Biên Phủ (Hồ sơ nghiên cứu trận Điện Biên Phủ phục vụ riêng cho tổng thống Giôn-xơn dày hàng chục trang, trong tổng số vài trăm trang hồ sơ về trận Khe Sanh đã được giải mật). Cả MACV lẫn Bộ chỉ huy tối cao Hoa Kỳ đều đã nhận thấy Khe Sanh có một thế mạnh căn bản so với không chỉ với Điện Biên Phủ (ĐBP), mà với mọi pháo đài từng có trong lịch sử. Đó là Khe Sanh được hỗ trợ bởi hệ thống hỏa lực cực mạnh, chế áp độc lập từ bên ngoài, gồm hàng chục lần chiếc pháo đài bay B-52 đánh phá mỗi ngày (lấy từ kế hoạch Operation Arc Light, 1965-1973, theo hồ sơ mật Nhà trắng, các phụ tá quân sự đã nhiều lần trấn an Giôn-xơn về khả năng rải thảm ở mọi điều kiện thời tiết của B-52), gồm yểm trợ đường không cự ly gần bởi lực lượng khoảng 2.000 máy bay chiến đấu khác của không quân chiến thuật, không lực của hải quân, không lực của thủy quân lục chiến, với tần suất 500 lần chiếc ngày, hoạt động được cả trong điều kiện tầm nhìn zêrô (bay hoàn toàn bằng khí tài) cũng như ban đêm. Khe Sanh còn được yểm trợ bởi trực thăng: 3.300 chiếc (Operation Niagara II); các tổ hợp ra-đa kể cả loại tân kỳ như SKY SPOT; 16 bộ pháo tự hành trên xe xích “Vua Chiến trường” 175mm bố trí tại trại Ca-rôn ở gần Cam Lộ và trận địa trên đỉnh Rock Pile, 18 lựu pháo 105mm, 8 lựu pháo 155mm tại các căn cứ pháo binh tại Quảng Trị, pháo yểm trợ tầm trung từ trận địa bắc đèo Hải Vân… Được đặc biệt tin tưởng còn có đạn pháo 105mm COFRAM (Combined Ordinance Fragmentary Antipersonnel Munition) nổ từng tràng trên cao, văng vô vàn mảnh bao phủ một tầm sát thương rộng lớn, giống như bom bi (Cluster Bomb Unit), chủ yếu được để dành, nhằm tạo bất ngờ lớn một khi Khe Sanh bị tràn ngập; cũng như đạn pháo “tổ ong” (flechettes), khi nổ bắn ra muôn vàn mũi tên thép trong một hình nón 30 độ, rất hữu hiệu chống chiến thuật biển người… Bảo đảm kỹ thuật - hậu cần cho Khe Sanh, bao gồm tải thương bằng trực thăng (MedVac); và phương thức tiếp tế LAPES (thả dù ở độ cao tầm thấp) thực hiện bởi một cầu hàng không hiện đại, qui mô đến mức hoàn hảo trên các máy bay trọng tải lớn C-130, C-132. Oét-mô-len có thể đáp ứng cho Khe Sanh tới 600 tấn hàng tiếp tế/ngày, trong khi Na-va chỉ cung cấp được cho Điện Biên Phủ 100 tấn là cùng. Từ 19 đến 25 tháng Giêng, một hệ thống cảm biến điện tử hiện đại mang bí hiệu Muscle Shoals được triển khai quanh Khe Sanh để hỗ trợ cho các hệ thống trinh sát đường không và trên bộ. Còn phải kể đến lực lượng cơ động chiến lược gồm sư đoàn kỵ binh bay số 1 và sư đoàn không vận 101, đã hiện diện ngay trước Tết ở vùng chiến thuật I (CT1), để sẵn sàng từ ngoài đánh vào để cứu Khe Sanh. Tại cao điểm của chiến trường Khe Sanh, 15-3-1968, tướng Oét-mo-len tăng cường lực lượng cho vùng CT1 từ 38 tiểu đoàn Mỹ khi quân Bắc Việt Nam bắt đầu phong tỏa Khe Sanh lên 54 tiểu đoàn, tức là hơn một nửa số quân Mỹ viễn chinh ở Nam Việt Nam.

Tuy nhiên, trong số những người ở Oa-sinh-tơn tin tưởng rằng sẽ có một “Điện Biên Phủ” ở Khe Sanh, không phải nhân vật nào cũng nhất quyết rằng Mỹ chắc thắng được ở đó. Theo thư gửi Tổng thống ngày 10 tháng Giêng năm 1968, một đại diện cho khuynh hướng ngờ vực này phát biểu: “Điều đáng lo ngại là sự tập trung của bộ đội Việt Nam ở Lào chống lính thủy đánh bộ (LTĐB) đồn trú ở Khe Sanh. Tổng thống nên yêu cầu tướng Oét-mo-len cân nhắc lợi hại về việc rút khỏi Khe Sanh, nhất là khi đường 9 đã bị cắt… Tổng thống cần được yên tâm rằng, tướng Oét-mo-len tuyệt đối tự tin về khả năng đương đầu ở Khe Sanh; vì đây chính là cơ hội tốt nhất để một Điện Biên Phủ xảy ra. Mà kẻ địch thì đang tìm kiếm một trận Điện Biên Phủ”. Cho dù thông điệp đầu năm 1968 của Tổng thống Mỹ đầy khích lệ, nhưng mối lo ngại về cái dớp “Điện Biên Phủ” vẫn lơ lửng trong phòng bầu dục. Có lần, Giôn-xơn quay về phía các trợ lý quân sự và hét to “Quỷ tha ma bắt cái trận Điện Biên Phủ kia đi!”.

Trụ vững ở chân, nhưng lại “ăn” một cú vào đầu

Kể từ kỳ Giáng sinh 1967, tin tình báo dồn dập báo về. Hà Nội đã tiến hành một chiến dịch tiếp tế được hiệp đồng cực kỳ tốt theo Công văn báo cáo Tổng thống 22-1-1968 của tướng Gút-pa-xtơ. Cường độ vận chuyển, cả bộ lẫn thủy tại địa phận khu 4 của miền Bắc, cũng như của đường Hồ Chí Minh đã đột ngột tăng (trung bình mỗi ngày đêm, xe tải chuyển được tới 2.200 tấn hàng, gấp 8-10 lần so với trước, và đủ cung cấp cho một sư đoàn Bắc Việt trong điều kiện tác chiến trong 22 ngày - công điện báo cáo của DIA - tình báo quân sự Mỹ, ngày 19-1-1968). Trước đó, 11-1-1968, tổng hợp tin tức của CIA về mối đe dọa đối với Khe Sanh, phụ tá về an ninh của tổng thống báo cáo với Giôn-xơn về việc cộng sản “có vẻ đang sử dụng thời gian từ nay đến Tết để hoàn thành việc tập trung quân quanh Khe Sanh, chuẩn bị tiến công (căn cứ này) vào ngay sau Tết, bằng lực lượng “2 vạn quân… tương đương với 4 sư đoàn”.

Tướng Oét-mo-len lập tức phản ứng linh hoạt. 11 tháng Giêng, Oét-mo-len gặp tướng Cu-xman, tư lệnh quân Mỹ ở vùng chiến thuật I. Ngoài hai tiểu đoàn tăng cường LTĐB Mỹ hiện đóng ở Khe Sanh, kế hoạch tăng viện I sẽ là một tiểu đoàn LTĐB Mỹ đến nơi 8 giờ sau khi có lệnh, kế hoạch tăng viện II sẽ là một tiểu đoàn LTĐB Mỹ nữa, đến nơi 12 giờ sau khi có lệnh... Oét-mo-len cũng lệnh cho Cu-xman trong trường hợp khẩn cấp, điều theo thứ tự ưu tiên thứ nhất, một lữ đoàn của sư đoàn Americal vào khu vực Huế/Phú Bài. Thứ tự ưu tiên thứ hai, chuẩn bị tăng cường cho Vùng chiến thuật I tại các khu vực Huế/Phú Bài/Đà Nẵng, hoặc Chu Lai quân tiếp viện hoặc từ sư đoàn không vận 101, hoặc từ sư đoàn kỵ binh bay số 1. Các cuộc hành binh bổ trợ là lữ đoàn lính thủy đánh bộ Nam Triều Tiên đang di chuyển về Đà Nẵng và một số đơn vị của sư đoàn LTĐB số 1 đã tách ra để triển khai ở phía bắc đèo Hải Vân. Một số đơn vị của sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ cũng đang tách ra để hành quân về tỉnh lỵ Quảng Trị. (Hồ sơ Nhà trắng, báo cáo của Oét-mo-len 12-1-1968). Điều trớ trêu là, thời hạn 31 tháng Giêng mà Oét-mo-len quy định phải điều động xong quân tăng cường cho vùng chiến thuật I (khu vực cận giới tuyến quân sự tạm thời và biên giới với Lào) lại chính là ngày sẽ đi vào sử sách phương Tây với cái tên là “cuộc tiến công Tết” đồng loạt nổ ra trên toàn miền Nam, gồm cả những nơi mà các đơn vị này vừa dời đi. Nhưng vẫn còn “may” cho Oét-mo-len. Vào những ngày ngay trước Tết, Weyand, tư lệnh Mỹ ở vùng chiến thuật III, một viên tướng gốc tình báo đã cảm nhận được những biến động quanh Sài Gòn, nhưng chủ yếu là do không thích đánh nhau ở rừng núi và biên cương. Ông ta đã xin được với Oét-mo-len đưa lực lượng cơ động quay về be chắn Sài Gòn. Trước giao thừa, 27 tiểu đoàn Mỹ đã trở lại tuyến phòng thủ Sài Gòn, còn 22 tiểu đoàn khác ở vành đai. Về sau Oét-mo-len sẽ ca ngợi đây là một trong những quyết định quan trọng nhất của cuộc chiến tranh Việt Nam. Còn các sử gia phương Tây thì cho rằng nếu hoàn toàn sập bẫy Hà Nội, đem đại quân đi càn quét vùng sâu vùng xa, Mỹ đã có thể mất Sài Gòn về tay Mặt trận Giải phóng trong dịp Tết Nguyên đán 1968.

Như để đáp lại “đơn đặt hàng” của Mỹ, chiều 20 tháng Giêng, quân Bắc Việt Nam đã khởi sự bằng pháo kích dữ dội bằng rốc-két (ca-chiu-sa) và cối vào căn cứ Khe Sanh. Kho đạn dược và kho nhiên liệu cho trực thăng nổ tung, đường băng cũng bị cày nát. Tướng Oét-mo-len viết báo cáo nhiều trang, cho thấy, vì dự liệu được cuộc tiến công này, từ đầu tháng, ông ta đã ban bố hàng loạt mệnh lệnh nhằm “tập trung quân lực Mỹ lớn nhất trong khả năng cho phép để đánh trả địch” (báo cáo 21-1-1968). Giữa những điều động và tăng cường trinh sát, ngày 19 tháng Giêng, Oét-mo-len đã điều tất cả các phi vụ ném bom của B.52 về vùng trọng điểm này. Cũng từ đây, tướng Oét-mo-len sẽ bắt đầu gần ba tháng liền tù tì “trực chiến” tại Sở chỉ huy, không về nghỉ đêm ở nhà riêng nữa. Chiến sử Khe Sanh của Mỹ cũng bắt đầu từ đây và đã tiêu tốn vô vàn giấy mực cho tới nay. Nhà trắng còn cẩn thận lưu vào Hồ sơ Khe Sanh những bài báo gây chấn động. Đáng chú ý có hai bài ra ngày 29-1-1968, Việt Nam: bão đang nổi lên; và Trận Khe Sanh: bước ngoặt có tính then chốt của Giô-dép Ôn-xóp

Ở Oa-sinh-tơn, tổng thống Mỹ theo dõi chặt chẽ tình hình chiến sự ở Khe Sanh. Giôn-sơn bắt Bộ tham mưu liên quân phải ký “quyết tâm thư bằng máu” giữ Khe Sanh. Trước đó (12-1-1968), Oét-mo-len khẳng định Khe Sanh, ngoài giá trị chiến lược về quân sự như chiếc “mỏ neo” ở phía tây của hệ thống phòng thủ vùng giáp giới tuyến, còn chặn đường “địch” xâm nhập xuống các tỉnh duyên hải trù phú. Từ bỏ Khe Sanh sẽ tạo ra một chiến thắng trọng đại về phương diện tuyên truyền cho đối phương, làm mất tinh thần của Mỹ và “Việt Nam cộng hòa”. Giới quân sự Mỹ dường như đã chuyển từ hành động quân sự thuần túy (chiến tranh quy ước) sang quan điểm chiến tranh còn chịu sự chi phối của các mục tiêu chính trị. Những hạt giống như thế này rồi sẽ nảy mầm thành những luận thuyết dạng như “Mỹ đã không thua về quân sự, chỉ thất bại về chính trị ở Việt Nam” xuất hiện ở Hoa Kỳ gần đây.

Ở Khe Sanh, bất chấp 40 lần không kích của B-52 và 500 lần chiếc máy bay chiến thuật mỗi ngày, đối phương vẫn chưa xuất kích. Giôn-xơn lo lắng. Ngày 2 tháng 2, ông ta lại thúc bách Chủ tịch hội đồng liên quân Uyn-lơ phân tích sự tương đồng giữa Khe Sanh và Điện Biên Phủ. Trả lời vào hôm sau, Uyn-lơ lại trích báo cáo của chính Oét-mo-len để trả lời tổng thống. Theo đó, kỹ năng tác chiến và nhất là công năng vũ khí của Mỹ hiện có ở Khe Sanh đều “trên tài” người Pháp ở ĐBP nhiều lắm. Điều lạ là trong dịp này, Oét-mo-len lại hỏi xin thêm máy bay C-130, máy bay trực thăng; các vũ khí cá nhân hiện đại hơn như tiểu liên M-16, súng máy M-60 và cối M-29 cho quân Sài Gòn. Việc quân Giải phóng và cả du kích miền Nam sử dụng những vũ khí mới gây nên một sự hoảng loạn trong hàng ngũ ngụy quân; theo báo cáo 25-2-1968, quân Sài Gòn từ nay gọi súng carbine là “súng đồ chơi”, đòi người Mỹ phải chi ra những khí giới mới.

Lạ hơn nữa là Oét-mo-len lại đề cập khả năng dùng đến vũ khí hạt nhân chiến thuật, hoặc vũ khí hóa học, “nếu tình hình vùng gần giới tuyến quân sự tạm thời thay đổi nghiêm trọng”. Chuyện này làm người ta không thể không liên tưởng đến kế hoạch “Chim kền kền” của Mỹ đời tổng thống Ai-xen-hao, đòi ném bom nguyên tử xuống Điện Biên Phủ.

(Còn nữa)

LÊ ĐỖ HUY