Sau một hồi đi lòng vòng trong khu Cống Vị, tôi cũng đã tìm được khu tập thể Viện Khoa học xã hội nơi ông ở. Ông là Đặng Thọ Lộc
(trong ảnh), người con xứ Nghệ, người lính trên mặt trận khoa học. Ông mở đầu câu chuyện: Ngày này cách đây 36 năm là ngày tôi nhập ngũ.
10-1-1972, chàng trai trẻ sinh viên năm thứ 4, khoa Sinh – Đại học Tổng hợp Hà Nội, Đặng Thọ Lộc rời ghế nhà trường, lên đường nhập ngũ. Trải qua chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Hồ Chí Minh, năm 1976 ông quay ra học nốt chương trình đại học. Được đào tạo chuyên sâu về phân loại đất và phân bón, từ khi ra trường đến nay ông chỉ làm việc tại Viện Thổ nhưỡng nông hóa. Gặp gỡ nông dân nhiều, đến vùng sâu vùng xa, thấu hiểu cái khổ của đồng bào nên ông có một động lực đam mê khoa học thực sự.
Ông là một trong những tác giả xây dựng và lập nên bộ tư liệu, kể cả tiêu bản và dữ liệu “Những thông tin cơ bản các loại đất chính Việt Nam”. Ông còn làm chủ nhiệm dự án đưa một số giá thể gồm hỗn hợp hữu cơ trộn với đất để trồng rau, cây ăn quả, dự án thành công nhất đã được triển khai tại đảo Bạch Long Vĩ. Xuất phát từ yêu cầu của Bộ Quốc phòng, một nhóm ở Viện đã nghiên cứu để tìm ra một loại đất nhân tạo với tên gọi “giá thể” và đưa ra đảo. Yêu cầu là phải nhẹ, xốp, giữ nước, giữ dinh dưỡng kéo dài để cho đời cây sống dài hơn. Giá thể này khi trộn lẫn đất giúp cải tạo đất. Dự án triển khai tại đảo giúp bà con tự túc được rau mà trước đó phải chuyển từ đất liền ra. Đến nay sản phẩm này có tính ứng dụng khá lớn, toàn bộ phần hoa cây cảnh, bãi biển, sân cỏ họ đều dùng sản phẩm này để trộn.
Nhưng ông dồn nhiều công sức nhất để nghiên cứu cỏ. Ông là một trong số người đầu tiên nghiên cứu hỗn hợp mặt sân cỏ phục vụ cho bóng đá tại Sân vận động Hà Nội theo công nghệ Nga và sân vận động Lam Sơn – Vũng Tàu.
Đặc biệt là công trình nghiên cứu “Công nghệ vetiver chống sạt lở mái ta-luy đường Hồ Chí Minh”. Rất tình cờ khi đường Hồ Chí Minh được hình thành, vấn đề sạt lở được đặt ra như một chủ điểm nóng, một người bạn của ông đến hỏi ông xem có giải pháp nào để chống sạt lở mái ta-luy đường không? Ông cười nhẹ nhõm: Quá đơn giản! Lý do là trong thời gian đi nghiên cứu ở nước ngoài, ông vẫn còn lưu giữ được những tư liệu về cây cỏ vetiver. Thế là ông dành thời gian nghiên cứu và viết dự án “Công nghệ vetiver chống sạt lở mái ta-luy đường Hồ Chí Minh”; rồi bảo vệ đề cương dự án thành công tại Bộ Giao thông-Vận tải. Đến nay, công nghệ này được áp dụng trong toàn ngành giao thông, đặc biệt là với đường sá.
Cỏ vetiver có ưu điểm, càng khô hạn rễ xuống càng sâu, nhánh rễ chính một năm mới chết. Từ nhánh chính sinh ra hơn 40 nhánh con, nhánh rễ con sử dụng hữu cơ của rễ mẹ chết đi và tồn tại. Từ giống ngoại nhập, cỏ vetiver đã gần như trở thành cây bản địa, đem lại hiệu quả kinh tế cao tại nước ta. So sánh chi phí thi công cỏ vetiver với các biện pháp kiên cố mái dốc ta-luy truyền thống ốp mái bằng đá hộc (trong bảng dưới đây)
Giải pháp |
Khối lượng (m2) |
Đơn giá (đồng/m2) |
Thành tiền (đồng) |
Trồng cỏ vetiver (Đoạn thử nghiệm) |
90.617,6 |
30.000 |
2.718.528.000
|
Ốp mái ta-luy bằng đá hộc |
90.617,6 |
120.000 |
10.874.112.000
|
 |
Vạt cỏ vetiver được trồng ở Hương Sơn – Hà Tĩnh. Ảnh: Đặng Thọ Lộc |
Chi phí toàn bộ cho 1m
2 nếu ốp bằng đá hộc là 120.000đ, trong khi nếu trồng vetiver chỉ cần 30.000đ; thời gian thi công khi dùng cỏ ngắn hơn nhiều. Hằng năm, trong quy trình kỹ thuật bảo dưỡng, cần cắt một phần lá để kích thích sự phát triển của cỏ tạo nguồn nguyên liệu để làm các sản phẩm mỹ nghệ xuất khẩu, tạo việc làm cho cộng đồng. Để bảo vệ mái ta-luy, theo ông việc khai thác cần phải có tổ chức, hướng dẫn và đúng quy trình kỹ thuật. Như thế sẽ giúp các làng lập nghiệp của thanh niên xung phong trên đường Hồ Chí Minh có thêm một nghề với thu nhập góp phần ổn định cuộc sống của họ trên quê hương mới.
Ông tâm sự: Trở lại xây dựng con đường nơi từng chiến đấu, tôi được gặp lại chính đồng đội cũ, tìm lại cảm xúc của người lính trong cuộc sống hôm nay.
Từ năm 2003 đến nay, ông tập trung nghiên cứu để hạn chế thoái hóa đất của Duyên hải Nam Trung Bộ, tham gia tư vấn cho quỹ môi trường toàn cầu và dự án khuyến nông ở Ninh Thuận, nơi mà đất bị bào mòn, rừng bị chặt phá nhiều, một năm chỉ có 3 tháng mưa mà lượng mưa lại nhỏ. Vật nuôi thì không có chuồng trại mà chỉ quây bằng những cây xương rồng khô, có khi “cừu vào cả công sở”. Nên vấn đề trồng giống cỏ mới để cung cấp thức ăn cho gia súc được đặt ra cấp bách. Ông đã bắt tay vào xây dựng mô hình trồng cỏ thâm canh, bổ sung nguồn thức ăn cho gia súc. Đã trồng được 12,4ha cỏ voi, 3ha cỏ bắp, 01ha cỏ ghi-nê (cỏ sả), 0,5ha cỏ Pa-xpa-lum, 0,3ha cỏ tín hiệu, 0,3ha cỏ sty-lo 184 và 1,5ha cỏ ve-ra-ba-sa-lum-ri-a; 3.500 cây keo dậu Ô-xtrây-li-a; gieo 170kg hạt Bình linh...
Năng suất cỏ voi đạt từ 15 đến 18 tấn/ha/lứa cắt. Từ chỗ thiếu thức ăn, nguồn cỏ này đã bảo đảm cung cấp thức ăn cho đàn gia súc suốt 3 năm thực hiện dự án, nhất là vào thời kỳ khô hạn; đồng thời giúp một số hộ có được thêm thu nhập từ việc bán cỏ cho các hộ chăn nuôi gia súc ở các xã vùng khô hạn lân cận. Đây là một thành công đáng kể của dự án và là điều nhiều năm qua các hộ dân chưa làm được.
Đam mê, bận rộn với khoa học là thế nhưng không làm khuất lấp đi sở thích “đặc biệt” đi chợ và nấu ăn của ông vào những ngày nghỉ cuối tuần. Ông cho hay: Do đi đến các vùng miền nhiều nên ông đã học và nấu được các món ăn, đặc sản của từng vùng. Khi tụ họp bạn bè để nhậu ông tự đi chợ mua từ mớ rau thơm, từng gói gia vị về chế biến món ăn thết bạn.
Bài và ảnh: THU HIỀN