Có ai tin rằng “cha đẻ” của thẻ ATM lại là một người Việt Nam chính gốc? Là tác giả của 58 phát minh và sáng chế, một lúc có thể viết tiếng Anh bằng tay phải, viết tiếng Pháp bằng tay trái, mà dường như vị chuyên viên ngân hàng cao cấp ở Mỹ này lại có vẻ gì chân chất, mộc mạc như bác Hai Lúa. Khước từ mức lương 1 triệu USD/năm, từ năm 2003, tiến sĩ Đỗ Đức Cường đã trở về nước, lại tiếp tục cần mẫn như chú ong thợ chăm chỉ, xây đắp cho Tổ quốc thân thương.
Ông lớn lên ở vùng đất Đức Phổ (Quảng Ngãi) đầy cát trắng gió lào, đầy nghèo đói. Anh chị em ruột bị chết vì đói quá. Ngay cả bản thân ông cũng bị chết hụt khi mới lên 6 tuổi. Có lẽ điều đó đã thôi thúc ông học tập từ nhỏ, phải làm giàu, “để vượt qua số phận hẩm hiu”. Cố gắng và vươn lên, ông theo học trường Y khoa (Sài Gòn), rồi chuyển sang Đại học Tổng hợp (Phú Thọ). Năm 1963, ông được cấp học bổng của ĐH Osaka (Nhật) chỉ sau một lần kiểm tra của phái đoàn người Nhật nghiên cứu về trí thông minh của người Việt Nam, ông là người có chỉ số IQ cao nhất. Tiếp tục học và học, ông sang Mỹ học về ngân hàng. Năm 1977, khi làm việc tại ngân hàng Citybank (Mỹ), tiến sĩ Cường được giao nhiệm vụ làm thế nào để chuyển khách hàng từ kênh chi nhánh ra kênh giao dịch tự động. Nhìn thấy những máy bán nước ngọt, bán thuốc lá tự động bằng máy, ông đã mơ ước có những giao dịch viên bằng…máy. Một năm sau, với sự tìm tòi sáng tạo của ông và cộng sự, chiếc máy giao dịch tự động đầu tiên đã xuất hiện, lớn gấp 4 lần so với máy ATM hiện nay. Tiêu tốn mất 1 triệu USD, thế mà máy chỉ có thể đọc thẻ, gửi yêu cầu của khách hàng về kho dữ liệu để triển khai rút tiền. Tiến sĩ Cường lúc này lại tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu, cải tiến và hoàn thiện ước mơ của mình trong suốt 20 năm gắn bó với Citybank.
Hơn 30 năm sống tại Mỹ, đến năm 2003, tiến sĩ Cường trở về Việt Nam, tìm hiểu và làm quen với ngân hàng Việt Nam. Dáng người nhỏ nhắn, gương mặt xương xương, hiền từ như ông nội của bầy cháu nhỏ, thế mà lúc nào tiến sĩ Cường cũng tất bật với công việc. Ít ai nghĩ rằng ông làm việc 18 tiếng một ngày. Hăng say và nhiệt tình như bất kỳ một bạn trẻ nào. Ông làm việc với Ngân hàng Đông Á, ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long, Ngân hàng Phát triển nhà Hà Nội, Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín và tư vấn về mô hình tập đoàn tài chính cho các Công ty Taxi Mai Minh, điện thoại Viettel, Công ty may Việt Tiến, Bảo Việt… “Tôi làm việc và nghỉ ngơi cùng nhân viên của mình. Khi mệt mỏi, tôi cũng sẵn sàng “lăn” tạm ra sàn chợp mắt như họ. Suốt 2 năm 2003, 2004, tôi chưa hề bước chân vào nhà hàng nào, cũng chưa hề bước chân vào tiệm café nào. Đơn giản thôi, vì tôi không muốn có sự ngăn cách nào giữa mình và giới trẻ. Tôi muốn xây dựng một thế hệ trẻ Việt Nam biết tư duy, năng động, và khao khát vượt qua chính mình. Nhưng tôi chỉ muốn là người hướng dẫn họ chứ không phải là người dạy họ. Dù tuổi tác khác nhau nhưng họ cũng giống như những đứa em bé bỏng trong nhà tôi”.
“Mới về Việt Nam, tôi đã thấy ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chỉ có máy ATM của ngân hàng Vietcombank và một số ngân hàng nước ngoài, chủ yếu dành cho khách hàng dung thẻ quốc tế. Hầu như người dân Việt Nam còn xa lạ với từ ATM.” Vậy là, một nỗi niềm lại đau đáu trong ông. Làm thế nào để máy ATM phục vụ hầu khắp mọi người và trở thành cầu nối đưa dịch vụ ngân hàng đến với những người dân bình thường nhất. Lại bắt tay vào nghiên cứu và lao động, ông đưa ra ý tưởng giúp các ngân hàng ở Việt Nam biến các máy ATM thành điểm giao dịch tự động bằng cách trang bị thêm các dịch vụ cho nó. Mới chỉ nghe qua ý tưởng của ông, mọi người đều cười trừ. Ông im lặng, lấy công việc để làm minh chứng. Đầu tiên, ông giúp ngân hàng Đông Á đào tạo những chuyên viên kỹ thuật mạng, vận hành, bảo trì máy ATM. Thậm chí 3 giờ sáng ông tới kiểm tra xem trung tâm xử lý dữ liệu của Đông Á có chạy đều không. Nửa đêm ông vẫn tìm đến bất kỳ máy ATM để xem nó hoạt động thế nào. Có máy ATM vào lúc 23 giờ báo hết tiền trên mạng, ông gọi điện bảo nhân viên nạp tiền luôn. Bởi nguyên tắc của ông là dịch vụ là trên hết, khách hàng luôn luôn đúng. Có lẽ vì thế mà các máy ATM mà ông “làm việc” chưa bao giờ xảy ra sự cố trả tiền thiếu, sai hay mất tiền trong tài khoản của khách hàng.
Hơn thế nữa, để giúp các ngân hàng Việt Nam trang bị máy ATM, tiến sĩ Cường đã trao bản quyền 8 phát minh liên quan đến ATM của mình mà không hề đòi hỏi bất kỳ một nguồn lợi nhuận nào. Ông còn ra điều kiện cho nơi chế tạo không được bán máy qua công ty trung gian nhằm giảm giá thành cho ngân hàng Việt Nam và phải hỗ trợ kỹ thuật miễn phí dài hạn. Đó cũng là một trong những lý do giải thích vì sao máy ATM của Đông Á, Saigonbank khấu hao nhanh chỉ hơn 1 năm là hòa vốn. Sau đó, các ngân hàng bắt đầu thu lợi nhuận.
Có người hỏi ông: “Khước từ mức lương 1 triệu USD/năm để trở về Việt Nam phải chăng đó là sự cống hiến hy sinh?” Ông chỉ nhẹ nhàng đáp: “Trong cuộc đời, tất cả mọi người chúng ta, hãy xem Tổ quốc như là một tổ ong, trong đó tất cả mọi con ong đều là ong thợ. Nó phải bay xa hàng chục dặm đi tìm những nơi mới mẻ để hút nhiều nhụy hoa rồi tìm đường trở về làm đầy túi mật. Tất cả những con ong đó đều không có tham vọng xây dựng cho mình một vương quốc bí mật. Nhưng bao giờ cũng vậy, nó nhớ con đường bay đi để rồi nó bay trở về. Khi nó bay đi, có thể bụng đói than rời, khi nó bay về nó đem theo mật cho bầy. Loài vật đã như vậy huống chi là loài người. Tôi cho rằng không nên dung chữ hy sinh, cống hiến hay cái gì đó. Phải xem đó là nghĩa vụ cuộc sống của một người. Đời người vừa sinh ra đã phải quảy trên vai một gói hành trang để chuẩn bị một cuộc hành trình tới cái đích là nấm mồ của mình. Câu hỏi là: Chúng ta để lại cái gì, một dấu chân, một dấu đi đường, một tiếng gọi, để giúp cho người khác đỡ chông gai hơn. Tôi trở về trong tuổi già là một điều tất yếu. Trong cuộc đời này, chúng ta nợ rất nhiều người, gọi là cái nợ áo cơm. Nếu không có người khác, liệu tôi có tồn tại sống ở nơi này nơi khác. Sự trở về như sự trở về của những chú ong mật. Những đóng góp, những điều mà tôi làm ở đây hoàn toàn là giọt mật mang lại cho Tổ quốc mà thôi”…
Hành trang trên vai đi tới cái đích cuối cùng, tiến sĩ Cường cố gắng gom góp những thông tin, có thể là không mới, nhưng chắc chắn là không cũ để chia sẻ với tất cả những ai cần đến. Ông nhận thấy ở những thế hệ trẻ Việt Nam dáng dấp của mình mấy chục năm về trước. Họ đang đi trên con đường ông đã đi, vậy ông làm thế nào đây để con đường họ bớt chông gai hơn? Cho đến tận bây giờ, tiến sĩ Đỗ Đức Cường vẫn chưa khẳng định được rằng giới trẻ thu hút ông hay ông thu hút họ. Chỉ biết rằng giờ này ông không thể rời xa họ được. Và mật ngọt của “chú ong thợ” mang về ngày càng ngọt ngào hơn.
Tháng 3-2007, một quỹ đầu tư của Hoa Kỳ và một công ty quân đội của Trung Quốc sẽ đầu tư vào Việt Nam để thành lập một công ty ATM tại Việt Nam. Đây là dòng ATM thông minh, có thể hoán đổi ngoại tệ 2 chiều và nạp thẳng tiền mặt vào trong máy. Đó cũng là một trong những dự án chủ trương hiện đại hóa ngân hàng quốc tế tại Việt Nam mà ông đang thực hiện bấy nay. Ông hướng dẫn cho các kỹ sư Việt Nam tự tay thiết kế loại thẻ ATM thông minh này và rất nhiều khách hàng ngoại quốc đã đặt hàng. Nhìn sản phẩm hiển hiện thực tế, người thấy không giấu nổi niềm vui: “Những kỹ sư của Việt Nam, 3 năm trước họ nhìn thẻ ATM thì sợ lắm. Còn giờ đây, họ đã thiết kế ra loại thẻ ATM thông minh hơn. Đó chính là niềm vui lớn nhất của tôi”. Thẻ ATM trước kia 80% chức năng là công cụ phục vụ, lợi nhuận ngân hàng vốn bị chậm. Bây giờ, chính những người kỹ sư trẻ của Việt Nam đã thiết kế được thẻ ATM thông minh hơn, 60% chức năng là công cụ kinh doanh. Chỉ riêng một chiếc thẻ có thể làm nhiều chức năng (như hoán đổi ngoại tệ, bán hàng và trả lại tiền) và nó có nhiệm vụ cao hơn một người giao dịch viên. Thẻ ATM còn có thể xử lý như một sổ tiết kiệm điện tử. Ngoài việc xem thẻ ATM trở thành một thứ thời trang trong xã hội hiện đại, ông còn muốn chú trọng tới đẩy mạnh huy động tiết kiệm. Thẻ ATM thông minh “made in VN” sẽ chính thức được đăng ký bản quyền mang thương hiệu Việt Nam, làm thế nào để những người dân bình thường không có thẻ, chưa có thẻ, không có sổ tiết kiệm vẫn có thể giao dịch được. Đó cũng là mong mỏi của ông, bình dân hóa dịch vụ ngân hàng và mang lợi ích cho mọi người.
3 năm làm việc ở Tổ quốc với những cố gắng, nỗ lực và khát khao, “những giọt mật” tiến sĩ Cường mang về không thể đem ra để tính toán và so sánh. Và chắc chắn rằng ông vẫn đang cố gắng và nỗ lực hơn nữa. Nhưng cao cả hơn, đó chính là những giọt mật ngọt cho đời, chắt chiu từ tình yêu Tổ quốc.
Theo Thời đại