QĐND - Cái Tết Ất Mão-1975 qua thật nhanh chẳng để lại ấn tượng gì mặc dầu đó là cái Tết “của tôi” đánh dấu tuổi tôi tròn hai con giáp. Sự kiện tòa soạn cử một lúc 9 phóng viên vào các mặt trận sâu tận khu 6 - Nam Trung Bộ và miền Đông, miền Tây Nam Bộ đúng ít ngày trước Tết đã choán hết mọi sự quan tâm, suy nghĩ của tôi. Tại sao trong số ấy không có mình? Hay chưa đến lượt mình?
Sau Tết, cũng là lúc tin chiến thắng Phước Long, lần đầu tiên ta giải phóng và làm chủ hoàn toàn một thị xã ở miền Đông Nam Bộ, đã lan tỏa khắp miền Bắc. Tuy nhiên, thông tin cụ thể về chiến thắng này quá ít, thế là tôi được lệnh đến Bộ tư lệnh Tăng - Thiết giáp để tìm hiểu với hy vọng được thêm chút tư liệu nào cũng quý. Quả là cũng có thật, những dòng tin điện báo cáo cực ngắn gọn theo ngành dọc của đơn vị xe tăng tham gia trận Phước Long do tôi đem về đã được các phóng viên giỏi tay nghề ghép nối cùng các tư liệu khác dựng thành một bài báo khá hấp dẫn. Tôi hiểu, chiến cuộc đang phát triển rất nhanh, cơn khát thông tin chiến trường đang cháy bỏng hơn bao giờ hết. Được đà, tôi học theo các anh có kinh nghiệm tìm cách dò hỏi thông tin qua các nguồn gián tiếp. Tôi cũng ngồi ôm chiếc máy điện thoại Z187 của phòng biên tập Quân sự. “A lô, tôi ở Báo Quân đội nhân dân, Hà Nội đây. Đơn vị anh đang tác chiến à? Tiến đến đâu rồi?…”. Phía đầu dây bên kia: “Khó nghe lắm. Chúng tôi ở Bắc Tây Nguyên, đang tiến xuống phía…”. “A lô, tôi ở tổng đài mặt trận, đơn vị đang hành quân vào hướng Quảng Trị… nhanh, rất nhanh… gấp lắm!”. Tôi đã quay máy đến rát cả mấy đầu ngón tay, chiếc tổ hợp Z187-máy được “ưu tiên” của tòa soạn đã nhiều lần nóng bỏng. Nhưng chỉ tiếng ù ù, xèn xẹt, tiếng người ít, ít lắm, lại đứt đoạn.
 |
| Sư đoàn 2 tiến vào giải phóng Đà Nẵng. Ảnh tư liệu internet |
Cám ơn lắm, thương lắm Z187 của chúng tôi nhưng phải tạm biệt thôi; không thể cứ ngồi ôm máy săn tin từ xa, gián tiếp. Tình hình lúc này khác rồi. Trưởng phòng Công Bằng đã đồng ý cho tôi đi xin giấy giới thiệu đến “các mặt trận phía Nam”. Súng ngắn, tăng võng có rồi. Xe liên hệ đi nhờ của Cục Vũ khí - đạn sáng mai đã xuất phát. Nhưng giấy thì chưa. Tổng biên tập Nguyễn Đình Ước đang ở chiến trường, đêm tôi mạnh dạn gõ cửa nhà riêng Phó tổng biên tập Trần Công Mân. Ông hỏi “Tại sao xin đi mặt trận Đà Nẵng?”. Tôi trả lời rằng, theo suy nghĩ của tôi, khi vào được trong đó thì chắc là Quảng Trị, Huế đã giải phóng rồi. Ông chỉ dặn dò ít câu và ký.
*
* *
Chiếc command car “đít vuông” của Cục Vũ khí - đạn thật tuyệt vời, cũ nhưng còn rất tốt, lại có vẻ từng trải. Các anh cán bộ của cục rất giàu kinh nghiệm, xoay hai chiếc ghế dọc thành ghế ngang. Ngồi vậy, nhìn thẳng dễ quan sát, đi đường dài đỡ mỏi cổ.
Vừa đến A Sầu, A Lưới phía tây Thừa Thiên - Huế thì chúng tôi được tin Huế đã giải phóng. Sáng sớm hôm sau, xe chúng tôi chạy xuyên các phòng tuyến dày đặc của quân địch phía tây Thừa Thiên - Huế. Đèo Hải Vân tắc, ứ nhiều đoạn bởi chiến sự vừa xảy ra. Quần áo rằn ri, súng, mũ, bao gạo sấy… quân địch còn vứt đầy đường. Xe chết máy, đường, cống bị đạn, mìn, rồi xe tăng, ô tô của ta, của địch qua lại làm sạt lở… Tối khuya chúng tôi mới đến phía ngoài Đà Nẵng, căn cứ của một sư đoàn địch tại núi Phước Tượng. Đấy là điểm hội quân của các anh ở Cục Vũ khí - đạn. “Đạn cho Đà Nẵng” - nhiệm vụ của các anh, nỗi lo của các anh và ý định một bài viết của tôi không còn cần nữa. Chiến trường biến chuyển nhanh quá. Đêm khuya, chúng tôi phóng thẳng vào trung tâm thành phố. Một sĩ quan của Cục Vũ khí - đạn có nhà ở Đà Nẵng. Rất nhanh, anh tìm được nhà mình ở đường Trưng Vương. Cuộc đoàn tụ của một gia đình cách mạng diễn ra trước mắt tôi thật cảm động nhưng lại như một lẽ gì đó giản dị, tất yếu.
Sáng sớm, tôi tách đoàn, đi bộ hướng thẳng về phía các căn cứ địch. Sở chỉ huy Quân đoàn 1 và Vùng 1 chiến thuật của quân ngụy hiện ngay cuối đường. Mấy chiến sĩ trẻ mách tôi: “Anh lên mà xem phòng chỉ huy của tên Trung tướng Ngô Quang Trưởng”. Tôi quan sát hai dãy nhà hai tầng của sở chỉ huy bao quanh một sân rất rộng. Đây rồi, con dấu “Tư lệnh Quân đoàn 1 kiêm Vùng 1 chiến thuật” nằm lăn lóc ngay bên cống nước. Ông chủ của nó chắc quá vội vã bỏ chạy. “Chiến lợi phẩm” tất nhiên thuộc về 2 chiến sĩ trẻ. Tôi bước thẳng lên tầng 2, vào phòng của Trung tướng ngụy Ngô Quang Trưởng. Tất cả vẫn nguyên xi. Tôi vội ghi vào sổ tay: Tấm bản đồ tác chiến to chiếm đến nửa bức tường với dấu bút tô đậm màu đỏ của 4 cánh quân “Việt Cộng” tiến vào Đà Nẵng. Chiếc gạt tàn thuốc lá đầy ự. Giấy tờ tung tóe trên bàn và sàn nhà…
Một ngày vòng Đà Nẵng, chưa hết nhưng đã quá đủ tư liệu cho một bài viết. Nhưng làm sao gửi bài về Hà Nội bây giờ?
Hôm sau, tôi đang khoác ba lô đi bộ trên đường Trưng Vương, bất chợt có tiếng gọi: “Mạnh Hùng!”. Ngoảnh lại. Ô, anh Công Bằng. Ô, anh Đức Toại - Các anh ở phòng biên tập Quân sự của tôi sao đã vào đến đây. Mới hôm qua các anh rời Hà Nội, bay đến Đồng Hới, rồi chuyển máy bay trực thăng đến đến Đà Nẵng. Chúng tôi lên ô tô. Tôi có thêm một ngày đi cùng các anh qua nhiều điểm của thành phố, sang cả các khu dân cư và căn cứ địch ở bán đảo Sơn Trà. Đêm, tôi mời các anh về nghỉ tại Sở chỉ huy của Ngô Quang Trưởng. Trưởng phòng Công Bằng nói ngay sáng mai anh phải ra Hà Nội. Anh sẽ viết bài về Huế, anh Đức Toại viết về Đà Nẵng giải phóng; còn tôi viết ngay một bài về điều gì ấn tượng nhất ở Đà Nẵng. Anh bảo: Sáng mai mình đi rất sớm, cậu viết xong cứ để ở bàn rồi ngủ đi cho đỡ mệt. Thế là tôi đã có bài báo đầu tiên về chiến sự Xuân 1975. Bài viết về không khí, cảnh tượng Đà Nẵng ngày đầu giải phóng kèm đôi chút suy nghĩ, nhận xét của tôi. Trong bài, tôi viết rất kỹ về những điều mình quan sát được trong Sở chỉ huy của địch. Bài báo được anh Hồng Phương lúc đó đang trực biên tập ở phòng rút tít: “Trong tác chiến thất của Ngô Quang Trưởng”. Sau này, khi ra Hà Nội, tôi được anh em động viên: Bài của cậu được khen là một bài bình luận chiến sự bằng các hình ảnh quan sát trực diện. Sau ít ngày tôi ở Đà Nẵng, Trưởng phòng Công Bằng lệnh cho tôi liên hệ với Bộ tư lệnh Quân đoàn 2, xin đi cùng vào phía Nam. Mặt trận đã lùi rất sâu về phía Nam. Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên… đã giải phóng, tôi nghĩ rất lạc quan: Chắc hẳn là tiến về Sài Gòn.
Thiếu tướng Chính ủy Quân đoàn 2 Lê Linh tiếp tôi. Ông nói qua về tình hình chiến cuộc, hướng nhiệm vụ chung của Quân đoàn (ông không cho biết cụ thể). Câu chuyện chính là ông động viên tôi, một thiếu úy phóng viên trẻ lần đầu đi chiến trường, bằng cách kể chuyện về anh Lê Duy Ứng, họa sĩ trẻ của Quân đoàn. Ông khen anh Ứng đi đến đâu là vẽ ngay đến đấy, rồi treo tranh ngay bên đường, cổ vũ kịp thời cán bộ, chiến sĩ và tuyên truyền trong nhân dân.
Vậy là tôi đã được hành tiến phía Nam cùng đại quân. Chiều tối đầu tiên, cầu Câu Lâu bị sập chưa sửa chữa xong, đoàn xe của chúng tôi đi vòng qua đất Duy Xuyên. Cảm nhận đầu tiên của tôi về hành quân thần tốc là bằng mọi cách tiến về Sài Gòn trong thời gian nhanh nhất.
Quân đoàn 2 với sự phối thuộc của Sư đoàn 3 Quân khu 5 cùng các đơn vị quân chủng, binh chủng khác hành quân theo Quốc lộ 1A qua các tỉnh ven biển và đánh địch trong hành tiến cùng với phương thức lấy tiến là chính, bỏ qua nhiều cứ điểm, những khu vực phòng thủ của địch. Các mũi nhọn “thần tốc” của quân đoàn thọc thẳng vào sân bay Thành Sơn, phá thế trận phòng thủ “phòng tuyến Phan Rang” của địch, rồi tiến như lốc cuốn qua Phan Thiết, Hàm Tân… Tôi đi cùng xe của các phóng viên Báo Quân đoàn 2, các anh Vũ Thuộc, Quốc Việt, Nguyễn Trọng Bính, Nguyễn Quang Tính, Phùng Huy Thịnh… cùng nấu ăn, cùng đào hầm…
Ngày 26 tháng 4 năm 1975, Quân đoàn 2 tấn công căn cứ Nước Trong, tin một phóng viên ngồi trên xe tăng bị thương nặng làm nhiều cán bộ đơn vị đi tìm tôi. Sau đó tôi mới biết người bị thương chính là họa sĩ Lê Duy Ứng. Mờ sáng ngày 30-4, tôi theo một chiếc ô tô chở chiến sĩ Trung đoàn 66 tiến vào Sài Gòn. Phía trước, các trận chiến của đơn vị xe tăng lữ đoàn 203 và bộ phận đi trước của Trung đoàn 66 tại ngã ba xa lộ Biên Hòa - Sài Gòn - Vũng Tàu. Tại cầu Rạch Chiếc, cầu Tân Cảng, các trận đánh diễn ra khá ác liệt nhưng nhanh chóng. Chúng tôi bị dừng lại khá lâu trước cầu Thị Nghè. Một chiếc xe bọc thép của địch bị bắn cháy nằm giữa cầu. Đạn và xăng trong xe chốc chốc lại nổ bùng lửa khói. Tôi sốt ruột định khoác ba lô phóng liều qua. Đúng lúc, chiếc xe command car chở nhóm phóng viên của Thông tấn xã Việt Nam và phòng Thông tấn quân sự đi đến. Tôi nói với các anh: Xe mình nhỏ có thể lách qua. Mọi người đồng ý. Thế là tôi tạm biệt các anh ở Trung đoàn 66, xin phép đi trước.
Chỉ ít phút, Dinh Độc Lập đã ở trước mắt. Cờ giải phóng đã bay trên nóc. Bộ sậu Dương Văn Minh đã bị bắt. Tôi đi tìm người cắm cờ. Tôi ngồi trên nóc xe tăng vừa hỏi chuyện đại đội trưởng Bùi Quang Thận vừa phác trong đầu 5 gạch đầu dòng để hy vọng sẽ điện nhờ máy 15 oát của anh em Thông tấn xã về Hà Nội. Tôi nhanh nhảu leo lên một cây xanh cao nhất trước cửa Dinh Độc lập để mắc ăng-ten giúp. Nhưng nhiễu, quá nhiễu. Mới hôm trước, ở rừng cao su, tôi đã mắc giúp các anh ăng-ten, chuyển phát tín hiệu ngon lành. Vậy mà… Bây giờ là giữa trung tâm Sài Gòn toàn nhà cao tầng. Giờ phút lịch sử này, máy nào chẳng hoạt động… Tôi bàn với các anh hay là đánh xe ra ngoại thành? Các anh tìm cách sang cơ quan Việt tấn xã, trên đường Hồng Thập Tự, ngay gần hông khu Dinh Độc Lập. Vẫn không phát được… Tất cả chúng tôi kéo về ăn nhờ cơm tối bộ đội trước cửa Dinh rồi về tòa nhà Sở Nội vụ của chính quyền Sài Gòn. Tôi hoàn thành bài ghi nhanh trong đêm. Nhưng là viết để đấy. Mãi hai hôm sau, tôi mới gửi được nhờ anh Đinh Quang Thành, phóng viên TTXVN được cử đi chuyến bay đầu tiên từ Sài Gòn ra Hà Nội…
Đang rạo rực, xốn xang với Sài Gòn vừa giải phóng, vừa trong Phủ thủ tướng ngụy quyền Trần Thiện Khiêm bước ra, tôi nghe thấy có tiếng người rất quen gọi tên mình. Hóa ra là Anh Ngọc. Thế là chúng tôi rủ nhau cùng đi… Chúng tôi liên hệ được với cơ quan tiền phương Bộ tư lệnh Hải quân, biết tin sẽ có tàu Hải quân ra đón tù chính trị của ta từ Côn Đảo trở về. Chúng tôi phóng xe máy ra Vũng Tàu, rồi lên tàu ra Côn Đảo. Lúc này thì những bài báo, những bức ảnh của chúng tôi về Vũng Tàu, về Côn Đảo giải phóng đều được gửi ra thông đồng bén giọt, thành công.
*
* *
Thế là cơn bão thần tốc của quân dân ta đã cuốn tôi đi, cuốn tôi vào nghề phóng viên mặt trận. Tôi còn được ở lại Thành phố Hồ Chí Minh một thời gian, sau lại được cử vào khu 5, Tây Nguyên ngay trong năm 1975… Rồi thì những tin tức quân Cam-pu-chia đánh chiếm Hòn Ông, Hòn Bà, Phú Quốc, Thổ Chu ở biển Tây Nam. Rồi quân Pôn Pốt đánh nhiều nơi ở vùng biên giới Tây Nam… Liên tục trong các tháng 3, tháng 4 năm 1978, từ Thành phố Hồ Chí Minh tôi được cử đi mặt trận Bắc Hà Tiên. Vừa ra Hà Nội, tôi lại được đi vùng biên giới Lào Cai đang rất gay cấn, phức tạp. Rồi tháng 1 năm 1979, quân tình nguyện ta sang giúp bạn Cam-pu-chia. Rồi tháng 2 năm 1979, lửa khói biên giới phía Bắc… Ước mơ trở lại làm một nhà khảo cổ dần lùi xa, tiếng súng các mặt trận, nghề phóng viên cuốn tôi đi.
Mạnh Hùng