QĐND - Từ đầu tháng 6, tin tức trinh sát cho biết có những triệu chứng địch bắt đầu củng cố và tăng cường phòng tuyến đường số 4 cả về binh lực, hỏa lực và công sự. Vấn đề đặt ra với Tổng hành dinh là mở chiến dịch càng sớm càng tốt.
Ngày 7-7-1950, Bộ Tổng tham mưu đệ trình Tổng tư lệnh bản dự thảo Mệnh lệnh mở Chiến dịch Biên Giới (mật danh là Chiến dịch Lê Hồng Phong 2) dự kiến sẽ mở màn vào trung tuần tháng 8-1950. Ba ngày sau, trong Dự án kế hoạch chiến dịch giải phóng vùng biên giới từ Cao Bằng đến Thất Khê, Bộ dự kiến chia chiến dịch thành ba đợt: Đợt 1: Tiêu diệt Cao Bằng, kiềm chế Đông Khê và Thất Khê; đợt 2: Bao vây Đông Khê, tiêu diệt Thất Khê, kiềm chế Lạng Sơn; đợt 3: Tùy tình hình mà xác định hướng khuếch trương chiến quả của hai đợt 1 và 2.
 |
|
Lán làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Chiến dịch Biên Giới.
|
Đây là lần đầu tiên Bộ Thống soái ra quân đánh lớn. Gọi là “đánh lớn” nhưng toàn bộ “vốn liếng” huy động cũng chỉ chừng hai đại đoàn. Vấn đề đặt ra với Bộ chỉ huy chiến dịch là với lực lượng đó, làm thế nào biến quyết tâm của Trung ương và mệnh lệnh của Cụ Hồ thành hiện thực. Với tư duy sắc bén và kinh nghiệm 5 năm cầm quân, lại được sự chỉ đạo, động viên trực tiếp của Cụ Hồ ngay tại mặt trận và ý kiến tham khảo của Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc, Chỉ huy trưởng chiến dịch Võ Nguyên Giáp đã cùng tập thể Đảng ủy hội tụ mọi yếu tố cần thiết để đưa chiến dịch đến thắng lợi.
Quân địch trên Khu biên thùy Đông Bắc (ZFNO) phần lớn là những đơn vị Âu Phi tinh nhuệ, bố trí trong công sự đang tiếp tục được củng cố. Về binh lực, địch có không ưu thế về quân số, nhưng chúng hơn hẳn ta về trang bị kỹ thuật. Điểm yếu cơ bản của địch là thế bố trí. Cả binh lực và hỏa lực của địch đều phân tán trong những cụm cứ điểm cô lập cách xa nhau hàng chục ki-lô-mét dọc con đường rừng núi độc đạo lại trong thời tiết mùa đông; khi bị tiến công, các vị trí rất khó ứng cứu cho nhau. Trong điều kiện trang bị của ta còn thua kém địch và trình độ đánh công kiên còn hạn chế, vấn đề đặt ra là làm thế nào vừa khoét sâu điểm yếu về thế bố trí của địch, vừa phát huy được sở trường đánh gần, đánh đêm, đánh vận động của ta. Bộ chỉ huy chiến dịch xác định phương châm tác chiến là đánh điểm – diệt viện, lấy tiêu diệt địch ngoài công sự là chủ yếu. Nhưng đâu là “điểm đột phá” để khơi mào, tạo điều kiện để đánh viện binh địch? Trên đường ra mặt trận, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tự hỏi: Chọn cách đánh như thế nào để có thể thực hiện phương châm đánh điểm diệt viện? Trong điều kiện hệ thống phòng thủ của địch đang được củng cố, chọn thị xã Cao Bằng làm điểm đột phá mở màn chiến dịch (như dự kiến trước đây của Bộ) liệu có quá sức bộ đội không?
Ngày 3-8, Chỉ huy trưởng chiến dịch Võ Nguyên Giáp đến sở chỉ huy. Trước đó một ngày, Tham mưu trưởng chiến dịch Hoàng Văn Thái đã phổ biến kế hoạch tác chiến sơ bộ (theo phương án cũ), bắt đầu bằng trận tiến công địch trong thị xã Cao Bằng. Kế hoạch này đã được cơ quan tham mưu chiến dịch và Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc cùng chuẩn bị. Sau khi nghe báo cáo, mặc dù thấy kế hoạch “có điều gì không phù hợp” nhưng ông Giáp chưa vội có ý kiến vì chưa có cơ sở thực tế để phát biểu. Hôm sau ông cùng một số cán bộ mặt trận trực tiếp đi trinh sát thực địa và kết luận rút ra là: Không thể chọn Cao Bằng làm điểm đột phá mở màn chiến dịch vì khó bảo đảm đánh thắng trận đầu. Lý do chủ yếu không chỉ vì binh lực địch đông, mà trận đánh đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề về chiến thuật, từ hành quân vượt sông đến hợp đồng chiến đấu trong tung thâm. Đó lại là những vấn đề bộ đội ta chưa có kinh nghiệm.
Chỉ huy trưởng bàn với Đảng ủy và thuyết phục Đoàn cố vấn Trung Quốc chuyển xuống đột phá Đông Khê, một mục tiêu phù hợp với khả năng của bộ đội. Ý tưởng đó dựa trên cơ sở nhận định: Mất Đông Khê, có thể địch đưa quân chiếm lại, hoặc sẽ rút khỏi Cao Bằng, cả hai trường hợp ta đều có điều kiện đánh điểm – diệt viện. Nếu địch không chiếm lại Đông Khê, ta sẽ đánh tiếp Thất Khê sau đó sẽ quay lên giải phóng Cao Bằng. Mặc dù việc thay đổi mục tiêu đòi hỏi nhiều mặt công tác chuẩn bị phải làm lại từ đầu, nhưng nguyên tắc bảo đảm đánh thắng trận đầu là cơ sở vững chắc nhất để mọi người chấp nhận chuyển mục tiêu tiến công đầu tiên.
Trong hội nghị phổ biến quyết định thay đổi kế hoạch tác chiến, Cụ Hồ nói với cán bộ chỉ huy các cấp: Trong quân sự, phải kiên quyết và bạo dạn. Bạo dạn, dũng cảm không phải là liều. Liều là dại, dũng cảm là khôn.
Trận Đông Khê bắt đầu sáng ngày 16-9-1950. Sau khi tiêu diệt một số cứ điểm ngoại vi, Trung đoàn 174 ba lần mở cửa đột phá tiến công vào mục tiêu chính (mà quân ta quen gọi là Đồn To) đều bị bật ra, trong khi trung đoàn 209 (từ phía nam đánh lên) chưa có điều kiện phối hợp để cùng “nhổ” mục tiêu quan trọng số 1 này. Để bảo đảm thắng lợi và hạn chế thương vong, Ban chỉ huy Mặt trận Đông Khê được lệnh tạm ngừng chiến đấu để chấn chỉnh lực lượng, động viên bộ đội, rút kinh nghiệm, tìm ra nguyên nhân để có hướng khắc phục về kỹ thuật, chiến thuật, đồng thời phải hợp đồng chiến đấu chu đáo giữa hai trung đoàn trước khi tiếp tục tiến công Đồn To. Chiều hôm sau, trận Đông Khê kết thúc thắng lợi với thời gian dài gấp đôi dự kiến và thương vong cũng cao hơn.
Sau trận Đông Khê, trên cơ sở nhận định địch có thể đưa quân từ Lạng Sơn lên kết hợp với quân dù, chiếm lại Đông Khê, Bộ chỉ huy chiến dịch giao cho Đại đoàn 308 triển khai đánh viện trong khu tam giác Lũng Chà - Bình Xiển – Nà Pá; Trung đoàn 174 đánh quân dù ở khu vực quanh Đông Khê; Trung đoàn 209 làm dự bị chiến dịch. Sau chừng mười ngày chờ đợi, viện binh địch không xuất hiện, Bộ chỉ huy vẫn chủ trương kiên trì chờ viện. Nhưng rồi sang đầu tháng 10, không khí trong sở chỉ huy dần dần trở nên hết sức khẩn trương khi hàng loạt tin tức đến dồn dập gần như đồng thời: Tin địch đánh lên Thái Nguyên, tin 4 tiểu đoàn địch do Lơ-pa-giơ chỉ huy từ Thất Khê lên và đặc biệt là tin Đại đoàn 308 để địch đi lọt qua trận địa phục kích. Mấy ngày sau lại có tin 3 tiểu đoàn quân Pháp do Sác-tông chỉ huy từ Cao Bằng rút chạy theo đường số 4 về phía Nam…
Cuộc hành binh của quân Pháp lên Thái Nguyên đã trong dự kiến của Bộ Tổng tư lệnh, nên Bộ chỉ huy chiến dịch tập trung suy nghĩ và chỉ đạo đánh hai binh đoàn Lơ-pa-giơ và Sác-tông. Vô luận ý định của địch như thế nào, chúng điều quân lên hướng Đông Khê là hoàn toàn có lợi cho ta. Sau khi nghe báo cáo, Cụ Hồ động viên: Cơ hội rất tốt đã xuất hiện, không được bỏ lỡ. Chỉ huy trưởng Võ Nguyên Giáp lệnh cho Đại đoàn trưởng 308 cho người đi gọi ngay bộ đội về triển khai chiến đấu và dặn thêm: Nếu địch không chiếm lại được Đông Khê, chúng có thể dồn sang khu vực Khâu Luông – Cốc Xá. Cần chú ý khu vực này. Đồng thời ông lệnh cho Trung đoàn 209 hành quân cấp tốc lên hướng Quang Liệt ngăn chặn, tiêu hao và làm chậm bước tiến của binh đoàn Cao Bằng. Tư tưởng chủ đạo của Bộ chỉ huy lúc này là quyết không cho hai binh đoàn địch hội quân để tạo thành sức mạnh yểm trợ nhau cùng rút về Thất Khê. Tiếp đó, có tin: Từ Lạng Sơn, Bộ chỉ huy Khu biên thùy lệnh cho hai binh đoàn gặp nhau ở khu vực được chúng gọi là Ouest calcaire (phía tây dãy núi đá vôi – ý nói triền núi Cốc Xá). Ta đã phán đoán đúng ý đồ của địch. Chỉ huy trưởng lệnh và động viên bộ đội khẩn trương tiêu diệt Binh đoàn Lơ-pa-giơ trước, đồng thời chuẩn bị tiêu diệt nốt binh đoàn Sác-tông. Với quyết tâm đó, ta đã đi nước cờ quyết định số phận của cả hai binh đoàn quân Pháp.
Suốt mấy ngày cơ quan tham mưu chiến dịch theo sát từng bước chuyển động của hai binh đoàn địch và hoạt động của quân ta. Điều khiến Bộ chỉ huy quan tâm là bắt đầu xuất hiện những khó khăn của bộ đội, nhất là về thể lực. Anh em chiến đấu liên tục trong điều kiện trời mưa, sương mù, đèo cao vực sâu. Do vừa hành quân, vừa tìm đường, tìm địch, nên có đơn vị có đêm chỉ cơ động được một ki-lô-mét. Chỉ huy trưởng nói với Chủ nhiệm Chính trị Mặt trận Lê Liêm nhắc các đơn vị: Hơn lúc nào hết, công tác chính trị cần quán triệt chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Ta mệt một thì địch mệt mười, phải ráng sức trước giờ tới đích, quyết tâm tiêu diệt địch cho kỳ hết để giành lấy toàn thắng.
Trong mệnh lệnh gửi các đơn vị đêm mồng 5-10, Chỉ huy trưởng Võ Nguyên Giáp nhắc lại nhiệm vụ phải khẩn trương tiêu diệt Binh đoàn Lơ-pa-giơ trước, không để chúng liên lạc được với Sác-tông. Tiếp đó, lúc 3 giờ sáng 7-10, trước khi các đơn vị bước vào trận tổng công kích đồng loạt vào khu vực Cốc Xá - 477, Chỉ huy trưởng gửi điện động viên bộ đội: Đêm nay trời mưa, các đồng chí mệt, nhưng lửa căm thù và lòng yêu nước của người chiến sĩ Vệ quốc, của người chiến sĩ cách mạng, luôn hun nấu tinh thần xung phong của các đồng chí… Quân địch chắc đói rét hơn ta, bị thương và chết rất nhiều, chúng lại chỉ có tinh thần của một lũ bại binh xâm lược. Cho nên ta phải cố lên nữa, tiêu diệt cho thật nhiều địch…
Đêm mồng 7-10, Bộ chỉ huy đứng trước một tình huống ngoài dự kiến: Cánh quân Lơ-pa-giơ về cơ bản đã bị tiêu diệt nhưng viên chỉ huy thì đang tìm đường lẩn trốn. Ngược lại, Binh đoàn Sác-tông quân số còn đông nhưng viên chỉ huy đã bị bắt. “Đội quân cứu hỏa” của De la Beaume từ Thất Khê lên đang bị Trung đoàn 174 chặn đánh ở Lũng Phầy, không sao tiến tới điểm hẹn ở Nà Cạo. Chỉ huy trưởng gọi điện cho Đại đoàn trưởng 308: “Cố thu xếp cho Lơ-pa-giơ sớm gặp Sác-tông”. Đang nói chuyện, Chỉ huy trưởng bỗng phát hiện giọng nói của ông Vương Thừa Vũ không bình thường. Ông hỏi ngay: “Sao tiếng nói của anh khàn khàn thế?” – “Dạ, báo cáo anh, tôi bị chảy máu dạ dày, đang phải nằm để tiếp máu…”. Ông Giáp ngắt lời không để ông Vũ nói tiếp: “Chịu khó nằm điều trị cho khỏe hẳn. Đánh giặc còn lâu dài. Anh báo cho anh Cao Văn Khánh biết: Địch đã đưa Binh đoàn De la Beaume lên Lũng Phầy để đón Lơ-pa-giơ và Sác-tông. Đại đoàn 308 phải hoàn thành nốt nhiệm vụ tiêu diệt binh đoàn này… Nhưng riêng anh phải nghỉ cho khỏe, phải theo ý quân y…”.
Chiều 9, đến lượt Lơ-pa-giơ bị bắt cùng với một số sĩ quan tùy tùng. Tối hôm đó, tại trại tù binh, cuộc hội ngộ Lơ-pa-giơ – Sác-tông được báo chí Pháp sau này gọi là một cuộc hẹn hò kỳ lạ.
Khi cả hai binh đoàn địch đã bị tiêu diệt, Bộ chỉ huy lệnh cho các đơn vị gấp rút củng cố lực lượng để xuống tiến công Thất Khê. Nhưng sáng ngày mồng 10 có tin địch đã bắt đầu rút khỏi thị trấn này. Sau Thất Khê (ngày mồng 10, cùng ngày cuộc rút quân khỏi Thái Nguyên) là cả một cuộc tháo chạy dây chuyền liên tiếp của quân Pháp trên đường số 4, từ Lạng Sơn (ngày 17) đến An Châu (ngày 23). Chỉ trong vòng một tuần lễ, tuyến phòng thủ của địch trên đường số 4 bị rút ngắn thêm 120 ki-lô-mét. Do tinh thần địch hoảng loạn sau khi hai binh đoàn bị tiêu diệt, cuộc tháo chạy đã diễn ra hoàn toàn ngoài dự kiến của Bộ chỉ huy chiến dịch. Địch tháo chạy nhanh hơn nhiều so với đôi chân (chạy bộ) của quân ta. Điều đó giải thích vì sao các đơn vị bỏ lỡ nhiều cơ hội diệt địch, điển hình là sáng 10-10. Hôm đó, địch vừa ra khỏi Thất Khê thì hàng nghìn tên đã bị dồn đống ở bờ bắc sông Kỳ Cùng mấy tiếng đồng hồ, vì cầu Bản Trại vừa bị công binh phá đêm trước.
Nhận thấy bộ đội đã trải qua gần nửa tháng vận động chiến đấu liên tục trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, địa hình phức tạp, sức khỏe đã giảm sút nhiều, khả năng truy kích hạn chế, Chỉ huy trưởng trao đổi với Bộ chỉ huy chiến dịch rồi hạ lệnh kết thúc chiến dịch.
Đạt kết quả vượt mức kế hoạch cả về tiêu diệt sinh lực địch và giải phóng đất đai, chiến dịch Biên giới có ý nghĩa chiến lược quan trọng chưa từng thấy. Binh lực địch bị tiêu diệt không chỉ đông về số lượng mà phần đông lại là những lực lượng tinh nhuệ bậc nhất trong quân đội Liên hiệp Pháp. Về chiều dài biên giới được khai thông, nếu kế hoạch đề ra là chỉ giải phóng từ Cao Bằng đến Thất Khê thì (cả các hướng phối hợp), ta đã khai thông 2/3 biên giới Việt – Trung (750/1.150km) với diện tích hơn 4.000km2. Năm thị xã có tầm quan trọng khác nhau về chiến lược (Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Lào Cai, Hòa Bình) được giải phóng. Căn cứ địa Việt Bắc được mở rộng và củng cố. Chiến dịch Biên Giới đánh dấu một bước trưởng thành rất cơ bản của các đơn vị chủ lực cả về đánh công kiên và đánh vận động. Bộ Tổng tư lệnh bước đầu rút được một số kinh nghiệm quan trọng về tổ chức một chiến dịch quy mô nhiều đại đoàn trên một chiến trường xa.
Với chiến thắng biên giới, ta đã phá tan thế bao vây chiến lược của địch, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn tiến công chiến lược, với quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ hoàn toàn thuộc về Bộ Thống soái của ta.
Trần Trọng Trung