Ông Bùi Văn Toản - “họa sĩ" trình bày báo "Xây dựng" trong nhà lao 6B, nay là chuyên gia nghiên cứu về nhà tù Côn Đảo.

Côn Đảo - hòn đảo mà chỉ nghe qua, cái tên của nó đã lay động cảm xúc của mỗi người Việt Nam. Côn Đảo - hòn đảo xinh đẹp bị biến thành “địa ngục trần gian” suốt 113 năm. Côn Đảo - hòn đảo từng giam cầm hàng chục vạn người yêu nước Việt Nam; trong đó, có hơn 22.000 người con ưu tú của Tổ quốc đã nằm lại với hòn đảo này vì tù ngục. Côn Đảo - hòn đảo “Bất khuất” với cuộc đấu tranh gần 6.694 ngày của những người cộng sản kiên trung, can trường. Nhưng ít ai biết, còn có một Côn Đảo - trường học báo chí với những câu chuyện lạ lùng mà quý giá về nghề báo...

Bài 1: Làm báo trong... ngục tối

Chuyện những người tù chính trị, trong đó có cả tử tù “xuất bản” được nhiều “ấn phẩm” báo chí trong nhà lao vô cùng hà khắc có lẽ “chỉ có ở Việt Nam”. Đó là cảm nhận đầy kính phục của tôi khi cách đây hai năm, tôi may mắn gặp gỡ và viết bài về ông Đặng Đức Hòa, một trong những người làm báo trong nhà tù Côn Đảo từ thời Pháp thuộc với “ấn phẩm” là những tờ báo viết lên… nền nhà lao. Mỗi “tờ báo” chỉ bằng cái chiếu phải mất biết bao công sức.

Người họa sĩ trình bày năm ấy

Bị ấn tượng mạnh bởi cách làm báo trong nhà tù Côn Đảo thời Pháp thuộc nên tôi đã “giật mình” khi đứng trước triển lãm tại bảo tàng Côn Đảo một ngày giữa tháng 5-2008. Theo giới thiệu của Ban quản lý bảo tàng, tại nhà tù này thời Mỹ - ngụy, đã có tới hơn 10 tờ báo được các tù nhân chính trị làm và “xuất bản” ngay trong tù, có tờ dày tới hàng trăm trang. Thật khó tin? Tại “địa ngục trần gian” với nghìn lẻ một thủ đoạn tra tấn, đàn áp dã man, làm sao những người cộng sản có thể làm được điều đó…? Cầm trên tay bản phô-tô các tờ báo tù với những tên gọi gợi nhớ một thời như: Sinh hoạt, Xây dựng, Niềm tin, Đoàn kết, Vươn lên… - tôi tin đó là những tờ báo đã được làm trong ngục tối. Nhưng những người làm báo ngày ấy nay ở đâu? Thật may mắn, tôi nhận được thông tin, cách đây ít lâu, có một cựu tù Côn Đảo tên là Bùi Văn Toản, từng làm “họa sĩ trình bày” của một số tờ báo tù nói trên đã ra thăm và phô-tô lại những tờ báo xưa, nay ông đang sống ở thành phố Hồ Chí Minh.

Về đất liền, tôi tới ngay thành phố Hồ Chí Minh. Lần hồi mãi, cũng hỏi được địa chỉ ông Bùi Văn Toản. Hóa ra, ông chính là một nhà nghiên cứu đã chuyên tâm sưu tầm về các tờ báo trong nhà tù Côn Đảo từ mấy chục năm qua. Hiện ông là một trong những người có trong tay bộ sưu tập các tờ báo trong nhà tù Côn Đảo nhiều nhất, tổng cộng hơn 10 số báo. Run run mở cho tôi xem bộ sưu tập, ký ức 19 năm sống trong nhà tù Côn Đảo, 3 năm làm “họa sĩ trình bày” như bỗng trở về trong ông giữa một trưa hè thanh bình mà oi ả…

Quê ở Hàm Thuận (Bình Thuận), 19 tuổi, chàng trai Bùi Văn Toản đã tham gia phong trào học sinh - sinh viên chống chế độ cũ và bị bắt giam gần 2 năm. Ra tù đúng lúc cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 nổ ra, Toản tham gia lực lượng của Thành đoàn và lại bị bắt, bị đày ra Côn Đảo. Đòn roi chẳng chịu khuất phục nên cứ sau mỗi lần tra tấn, anh lại bị đưa đến một trại giam ở mức độ ác liệt hơn. Sau chuồng cọp, trại 1, Toản được đưa đến trại 6B, nơi giam giữ những tù nhân “cứng đầu” nhất, đấu tranh kiên cường nhất. “Chỉ trong vòng một năm, từ tháng 9 năm 1971 đến tháng 9-1972, chúng tôi đã tiến hành hàng chục cuộc tuyệt thực với 47 ngày nhịn đói. Đợt tuyệt thực cuối cùng kéo dài tới 19 ngày. Kết thúc, ai cũng rã rời. Vậy mà ý tưởng làm báo, tờ báo đầu tiên lại ra đời chính sau những ngày ấy…” - ông Toản nhớ lại nguồn gốc ra đời tờ báo tù đầu tiên bằng một nghị quyết “bất thường” của Đảng ủy Lưu Chí Hiếu (tên một trong 5 ngôi sao sáng kiên trung nhất kiên quyết chống ly khai đã được viết trong tác phẩm “Bất khuất” của Nguyễn Đức Thuận).

Trang bìa số báo "Xây dựng" ra đời tại nhà tù Côn Đảo năm 1973.

“Công nghệ” làm báo của tù nhân Côn Đảo

“Sau 19 ngày tuyệt thực, chính trong lúc mệt mỏi nhất là lúc cần khơi dậy một khí thế đấu tranh mới. Công tác tư tưởng luôn đi đầu. Mà, trong nhà tù, cùng với học tập, ca hát thì làm báo, đọc báo chính là những “liều thuốc” tinh thần hiệu quả. Làm báo! Đó là chủ trương, là nghị quyết của Đảng ủy Lưu Chí Hiếu do đồng chí Nguyễn Ngọc Cao là bí thư lúc đó. Có báo, rất cần, rất hay! Để học tập. Để giáo dục. Để giải tỏa căng thẳng. Nhưng làm thế nào? Giấy đâu? Mực đâu? Bút đâu? Bài vở đâu? “Nhà báo” đâu? Toàn những câu hỏi không dễ trả lời khi kẻ thù trăm bề kìm kẹp, cấm cố, bưng bít thông tin, kiểm soát từng chân tơ kẽ tóc? Một cây kim may, một chiếc bút chì, một muỗng nhôm, một mảnh giấy hút thuốc… đều bị coi là “hàng cấm”?

Khó cũng cố mà làm! Thời Pháp, “các cụ” đi trước còn làm được. Há bây giờ anh em chịu bó tay? Nghị quyết xác định: Làm thí điểm từng tờ trong từng phòng, rồi tính!

“Nơi hầm tối là nơi sáng nhất”, “nơi kẻ thù kìm kẹp ác liệt nhất, vẫn có nhiều kẽ hở. Trại 6B, nơi giam giữ 800 tù chính trị “rắn nhất” thực ra đã bao phen làm bọn cai ngục bẽ mặt. Họ kiên quyết không chấp nhận chế độ Mỹ - ngụy, không hô đả đảo Hồ Chí Minh, không ly khai Đảng Cộng sản. Thậm chí, đến cái bì thư đề địa chỉ để gia đình gửi thư cũng không chấp nhận những dòng thể hiện là… trại tù. Mỗi lần trại tuyệt thực, bọn cai ngục không giải quyết được, lại phải kêu “quan thầy” từ Sài Gòn ra giải quyết. Sự kiên quyết ấy khiến kẻ địch phải “kiêng dè” và vô hình trung trong tù cũng có một “vùng lõm”, một “vùng tự do” tương đối cho chúng tôi”.

Vào cuộc. Chỉ là một tờ báo cấp… phòng giam nhưng chúng tôi cũng thành lập “ban biên tập” không khác gì một tòa soạn ngày nay. Số báo đầu tiên của phòng tôi do anh Lê Quang Ngọc làm trưởng ban biên tập (hiện còn sống ở Đầm Trấu, Hà Nội). Họa sĩ trình bày gồm: Bùi Văn Toản (phụ trách vẽ măng-sét, trình bày tiêu đề), chép nội dung: Trần Thanh Lê.

Về mảng nội dung, anh em bàn tán mãi. Hàng chục năm trong tù, nhiều chuyện lắm, chỉ chịu khó tư duy kể lại, viết lại là có rất nhiều “đề tài” hay. Nhưng ngặt nỗi, anh em đâu có ai từng làm báo chuyên nghiệp? Nhiều anh chưa từng viết nổi một… câu thơ. “Thôi thì học tập lẫn nhau, làm rồi quen, số sau hay hơn số trước” - anh Ngọc động viên. Thế là, ngoài cánh sinh viên quen viết lách, cả các “cụ già” lục tuần (trong tù nhìn như… bát tuần) như Lê Đình Toán (Bắc Ninh), Huỳnh Tài (Quảng Nam) bị bệnh tật nát hai buồng phổi vẫn ngồi nắn nót từng dòng, cho đến lúc ra đi, cuối năm 1974, trước ngày giải phóng chỉ 4 tháng. Tuy nhiên, để đủ bài, nói là “báo phòng” nhưng vẫn phải chạy đôn chạy đáo qua các phòng khác… xin bài, kêu gọi “cộng tác viên” từ các phòng giam lân cận.

Cái khó nhất trong làm báo tù, lại là những thứ đơn giản như: giấy, bút, mực.

Giấy làm báo được tận dụng từ “thập cẩm” các loại: giấy xi măng, giấy các-tông ngâm nước rồi lột ra thành 3-4 mặt, đem phơi khô, ép lại để dành làm báo.

Cọ vẽ tranh, vẽ đầu báo dễ làm nhất: chỉ cần một nhánh dương tươi, một cọng chổi quét nhà dùng răng cắn giập ra, vẽ hỏng, làm luôn cái khác!

Màu vẽ ở đâu? Có ngay: Biến đồ của địch thành… của ta! Màu đỏ từ thuốc đỏ bôi ngứa, màu vàng từ bột nghệ xin ở y tế, màu xanh từ thuốc sát trùng, màu đen từ thuốc nhuộm. Có bốn màu xanh, đỏ, vàng, đen rồi thì tha hồ pha chế đủ thứ màu mà sử dụng.

Có giấy, màu, cọ rồi lại phát sinh vấn đề bút viết và mực. Bút viết dùng loại bút bi Bic của Mỹ rất tiện. Song ngặt nỗi, kẻ thù kiểm duyệt chặt, hằng tháng chỉ cho mỗi phòng 1-2 cây bút để viết thư về gia đình. 1-2 cây bút ấy, vừa viết báo, vừa viết thư, tiết kiệm lắm cũng chỉ mươi trang là hết mực. Làm thế nào bây giờ? Chỉ còn cách “chế tạo mực”!

“Bây giờ nghĩ lại, không thể tin bút bi Bic hiện đại thế mà những người tù “tay trắng” lại có thể làm ra mực dùng cho bút ấy ngon lành! Tôi được anh em tin tưởng giao cho nghiên cứu “công nghệ làm mực”. Nằm vắt óc suy nghĩ bao đêm, thấy chỉ có thể kiếm được một thứ là… thuốc nhuộm. Mà thứ này cũng không dễ dàng tự nhiên mà có. Bàn bạc, chúng tôi giả vờ kêu quần áo bẩn xin cho mua… thuốc nhuộm. Lý do: mấy "chả" không cấp quần áo mới, không cho xà bông, quần áo dơ quá trời, phải nhuộm cho đỡ… xấu! Bọn địch nghe… có lý nên cho mua. May mà chúng chẳng mảy may nghi ngờ, mấy cha tù chính trị tự dưng sạch sẽ lạ đời? Có thuốc nhuộm, tôi pha thử thật đặc cho vào ruột bút bi. Viết được dăm dòng, đang vui sướng bỗng chán ngắt vì mực khô, bút tắc, bi hỏng - một chiếc bút đã… ra đi. Đau đứt ruột! Tình cờ, có lần đánh rơi thuốc pê-ni-xi-lin vào dầu thấy không tan tôi lóe lên suy nghĩ quấy thuốc nhuộm trong dầu. Thế là, tôi tìm cách đốt than, quấy thuốc nhuộm trong lọ pê-ni-xi-lin. Quạt than, quấy mực 2-3 giờ. Nhờ trời! Thuốc nhuộm cũng chịu… tan trong dầu. Có mực! Tôi sung sướng dùng ngay miệng hút đầy ứ ruột bút bi, mặc cho mồm mép đen sì.

“Có mực, có bài đã biên tập, anh Lê miệt mài ngồi chép. Mỗi ngày, tranh thủ lúc địch mở cửa cho tù nhân ra ngoài tắm giặt, anh ngồi cặm cụi trong phòng chép, cả ngày mới được 2-3 trang. Anh chép, còn tôi vẽ tiêu đề, minh họa. Vừa làm, vừa giấu, cứ thế, ngày 20-11-1972, số báo đầu tiên đã ra đời. Cùng thời điểm này, một số phòng khác cũng làm báo theo kế hoạch Đảng ủy triển khai. Từng phòng lựa chọn tên báo của mình rồi báo cho Đảng ủy biết. Hàng loạt tờ báo đã ra đời với những cái tên như: Rèn luyện, Sinh hoạt, Niềm tin, Đoàn kết, Tiến lên… Sau thành công của mạng lưới “báo phòng”, ngày 10-3-1973, tờ Xây dựng - tờ báo đại diện cho toàn thể trại giam tiếp tục ra đời (Trưởng ban biên tập tờ Xây dựng là ông Lê Tú, hiện còn sống ở Huế). “Thừa thắng xông lên”, ít lâu sau, tờ Xây dựng tiếp tục “sinh sôi”: Trang Thanh niên của tờ Xây dựng tách ra thành tờ báo mới: Tờ Vươn lên của Đoàn thanh niên giải phóng Nguyễn Văn Trỗi…”.

Cứ thế, trong vòng 2 năm, đã có tới hơn 10 tờ báo trong tù ra đời. Những tờ báo trong tù ra đời như món ăn tinh thần vô cùng quý giá, tạo nên niềm vui, nguồn sống mới mạnh mẽ trong mỗi trái tim tù ngục. Báo ra ban đầu có 2 tập, mỗi tập ban đầu 40-50 trang nhưng trại có tới 10 phòng giam, phải chuyền nhau đọc, mỗi phòng chỉ được giữ 2-3 ngày. Cách đọc báo cũng chỉ tranh thủ ánh sáng ban ngày, khe khẽ đọc cho nhau nghe chứ đâu phải ai cũng được xem. Đọc xong, anh em gom lại, đem đi chôn giấu, quyết không để kẻ thù phát hiện.

Cuối năm 1973, đầu năm 1974, sau Hiệp định Pa-ri, địch trở lại siết chặt đàn áp, cấm cố, tờ Xây dựng phải “đình bản” sau khi ra mắt số thứ 10. Lúc này, địch đã “đánh hơi” thấy hệ thống báo tù liên tục được xuất bản. Chúng điên cuồng lục soát, đào xới và cuối cùng đã phát hiện ra 10 số báo được chôn giấu. Chúng đưa lên Ty công an, nghiên cứu, truy lùng. Từng số báo có ghi ban biên tập, tên tác giả từng bài viết. Nhưng chúng đành cay đắng nghiến răng… cho qua vì đó toàn là… bút danh, chẳng biết là ai mà tìm. Mà có tìm qua nét chữ thì đám tù chính trị “cứng đầu” này cứ khăng khăng cãi bay cãi biến. Chúng đành “điên tiết” chuyển hết trại 6B qua một xà lim khác “kinh khủng” hơn…

(Còn nữa)

Bài và ảnh: NGUYÊN MINH - XUÂN CƯỜNG