* Bác Hồ ra mặt trận (Kỳ 1)

 

QĐND - Sáng hôm sau, Bác đến Sở chỉ huy, không quên dặn mang theo ống nhòm và bi-đông nước. Theo chỉ thị của anh Văn, Cao Pha tháp tùng cùng đồng chí Chước, Tổ trưởng đài quan sát hướng dẫn Bác đi. Bác xắn quần lên cao, chống gậy leo núi thoăn thoắt. Bác quan sát hồi lâu, hỏi kỹ những địa hình từ Đông Khê đến Thất Khê và Cao Bằng. Tại đây, nhà nhiếp ảnh Vũ Năng An đã chụp được bức ảnh Bác ngồi quan sát trận địa. Và bức ảnh này đã đi vào lịch sử, ghi dấu một giai đoạn đáng nhớ của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nó cũng trở thành biểu tượng truyền thống “Bác Hồ với ngành tình báo quân sự Việt Nam”.

Xuống núi, Bác dặn anh Cao Pha: “Trên đài lạnh lắm nhất là về đêm. Chú phải cho anh em mặc thật đủ ấm”. Bác cười vui nói tiếp: “Các chú có biết rang thịt heo “kiểu Việt Minh” không? Ngày trước ở chiến khu, các cô chú giải phóng quân lấy thịt băm nhỏ, trộn với muối, ớt, sả, rồi rang mặn bỏ vào ống tre, đến bữa ăn xúc ra một ít nấu với rau, vừa ăn nóng, ngon, vừa để được lâu, vừa tiết kiệm. Chú nhớ phổ biến kinh nghiệm này cho anh em trinh sát, quân báo hay đi hoạt động riêng lẻ”…

Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc trước lều dựng tạm trên đường đi chiến dịch Biên giới năm 1950 (ảnh: TL).

Nghĩ đến việc anh Văn thay đổi phương án tác chiến, Bác tỏ rõ sự tin tưởng nhất định chiến dịch sẽ thành công. Bác cảm hứng và để lại cho đời mấy vần thơ bất hủ:

Huề trượng đăng sơn quan trận địa

Vạn trùng sơn ủng vạn trùng vân

Nghĩa binh khí thế thôn Ngưu Đẩu

 Thề diệt sài lang xâm lược quân

Được dịch là:

Chống gậy lên non xem trận địa

Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây

Quân ta thế mạnh nuốt Ngưu Đẩu

Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy.

Ngày 16-9-1950, khi trận mở màn Đông Khê bước vào thời khắc giằng co quyết liệt nhất ở khu trung tâm, Bác bảo anh Cao Pha cho người đưa Bác lên đài quan sát đặt trên đỉnh núi của Sở chỉ huy để Bác quan sát trận quyết chiến cuối cùng ở cứ điểm lớn nhất của Đông Khê. Bác nén lòng, bình tâm theo dõi các mũi tiến công cực kỳ anh dũng của quân ta và Bác vô cùng xúc động khi nhìn thấy lá cờ quyết chiến quyết thắng phất cao, báo hiệu quân ta đã toàn thắng.

Đông Khê bị tiêu diệt. Tin chiến thắng lan nhanh khắp mặt trận. Ta bắt được nhiều tù binh địch. Trại tù binh ở cách không xa. Bác bảo anh Cao Pha đưa Bác đi gặp tù binh. Anh Cao Pha tỏ vẻ lo lắng việc giữ bí mật và an toàn cho Bác. Bác hiểu ý, liền gọi đồng chí bác sĩ đem bông, băng đến, băng bó từ đầu xuống má, băng bịt kín chòm râu, rồi bôi thấm thuốc đỏ như một thương binh. Trại trưởng tù binh đã lập tức được chuẩn bị. Ba tên sĩ quan tù binh, trong đó có viên đại úy đồn trưởng Đông Khê được lệnh đứng dậy khi Bác bước vào. Bác nói tiếng Pháp: “Tôi tự giới thiệu là Việt kiều ở Pháp, trước đây đã tham gia cùng nhân dân Pháp chống phát xít Đức. Nghe theo lời kêu gọi của Chính phủ Hồ Chí Minh, tôi về nước cùng đồng bào tôi kháng chiến. Còn các anh đến đây để làm gì?”.

- Chúng tôi đến đây theo lệnh cấp trên - Tên quan ba trả lời.

- Thực dân Pháp xâm lược Đông Dương, vậy các anh có biết mình là thực dân không? Bây giờ các anh bị bắt làm tù binh, phải tuân theo những quy định của trại. Nếu sau này các anh có thái độ tốt, tôi sẽ nghiên cứu cho các anh hồi hương, Các anh có ý kiến gì thì gửi lên tôi theo địa chỉ: “Nguyễn Thắng, Cố vấn Chính trị Mặt trận”…

Bác nói tiếng Pháp rất chuẩn, lưu loát và hay quá. Ba tên tù binh trố mắt ngạc nhiên, đứng nghiêm và tuân lệnh.

Trở về, Bác kể lại hôm lên mặt trận, gặp toán tù binh đang được giải về trại, Bác đã cởi chiếc áo ngoài cho một tù binh Pháp bị thương quần áo rách tươm. Đột nhiên Bác hỏi: “Mà sao các chú lại cho lột giày của tù binh bắt đeo lên cổ? Với người phương Tây, không có giày, họ đi lại rất khó khăn, khổ sở. Nếu có sợ tù binh chạy trốn, thì chí ít cũng cho họ đi tất chứ!”. Cả Bác và mọi người đều cười vui vẻ.

Đông Khê thất thủ, một cuộc đấu trí đã diễn ra giằng co quyết liệt giữa ta và địch không kém phần cuộc đấu lực. Ta chủ trương tiêu diệt sinh lực chủ yếu của địch đồng thời cho bao vây chặt Thất Khê, tiến tới giải phóng địa bàn hoạt động của chiến dịch. Ngược lại, Cao Bằng và một số vùng khác bị uy hiếp nghiêm trọng, địch quyết tâm giành lại những vùng đất đã mất để thực hiện mưu đồ chiếm đóng lâu dài.

Phục kích dài ngày, mệt mỏi, thiếu thốn nhưng không thấy địch kéo đến, một số cán bộ, chiến sĩ bắt đầu nản lòng. Anh Văn động viên các đơn vị nêu cao tinh thần vượt mọi khó khăn gian khổ, tin tưởng và kiên trì chờ đợi thời cơ. Trước tình hình căng thẳng, Bác Hồ luôn ung dung, thư thái, tán thành kế sách bài binh bố trận của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Và điều gì đến tất sẽ đến. Địch tập trung lớn lực lượng lính Âu-Phi tinh nhuệ mở cuộc hành binh hòng chiếm lại Đông Khê và giải vây cho Thất Khê.

Đúng như mưu lược của ta tiên liệu. Cán bộ, chiến sĩ ta vô cùng háo hức khi binh đoàn cơ động Sác-tông - Lơ Pa-giơ lọt vào đội hình mai phục của ta. Chiến sĩ ta xung phong lên đánh giáp lá cà hết sức dũng mãnh, tiêu diệt hoàn toàn binh đoàn này. Tin binh đoàn cơ động tinh nhuệ Sác-tông - Lơ Pa-giơ bị xóa sổ làm cho thực dân Pháp vô cùng hoang mang, hoảng sợ. Trước khí thế thừa thắng xông lên như vũ bão của quân ta, để tránh tổn thất sinh lực nặng nề hơn nữa, địch lập tức rút bỏ đồng loạt cả Na Sầm, Đồng Đăng, Lạng Sơn, Đình Lập.

Hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn hoàn toàn giải phóng. Bác vui như trẻ ra, Bác bảo anh Văn tổ chức cho Bác đi thăm đồng bào, chiến sĩ ở Đông Khê, Thất Khê, Cao Bằng mới được giải phóng. Từng đoàn bộ đội, dân công cùng đồng bào trước đây đi tản cư, nay gồng gánh trở về đông vui như đi hội. Tiếng cười, tiếng hát, tiếng chào hỏi xen lẫn tiếng hô vang dậy khắp nơi: “Việt Nam độc lập muôn năm!”, “Hồ Chủ tịch muôn năm!”. Bác xúc động, đôi mắt long lanh, hòa chung niềm hạnh phúc với đồng bào, bộ đội hoan hỉ tưng bừng trong ngày vui giải phóng. Bác bồi hồi nhớ lại chiều mồng hai Tết Tân Tỵ năm 1941, từ Trung Quốc về, đặt bước chân đầu tiên ở cột mốc 108 làng Pắc Bó, huyện Hà Quảng, Cao Bằng, Bác sống và làm việc trong hang Pắc Bó. Vậy mà thấm thoắt đã 9 năm trôi qua kể từ ngày ấy, giờ Bác lại trở lại Cao Bằng. Không biết những người thân quý ở làng Pắc Bó đã từng đùm bọc, giúp đỡ, bảo vệ Bác nay ai còn, ai mất? Bác bùi ngùi, mong có dịp về thăm lại cảnh cũ, người xưa…

Chiến dịch kết thúc, Bộ chỉ huy triệu tập hội nghị tổng kết sơ bộ tại Lam Sơn (Cao Bằng). Cán bộ ta và bạn có mặt dự họp rất đông vui. Hội nghị càng thêm tưng bừng, phấn khởi khi Bác bước vào hội trường và tham dự suốt buổi họp.

Bác căn dặn hội nghị:

- Càng gần thắng lợi càng nhiều gian nan. Ta đã đánh thắng địch ở biên giới, phải đánh thắng chúng ở đồng bằng. Chiến đấu ở đồng bằng khó khăn hơn nhiều. Không được chủ quan coi thường địch. Phải rút kinh nghiệm thật tốt, sẵn sàng nhận nhiệm vụ và giành thắng lợi ngày càng lớn hơn nữa…

Tan cuộc, anh Cao Pha tình cờ gặp được Bác. Bác rút tặng anh Cao Pha một điếu thuốc lá thơm và ân cần bảo: “Công tác nắm địch có ưu và có khuyết, cần tổng kết thật kỹ, thật tốt nhưng phải giữ bí mật, nhất là những cách nắm địch mới. À, khi nào lập gia đình, sinh cháu, nhớ báo tin để Bác tặng quà…”. Cao Pha vô cùng xúc động.

Thắng lợi to lớn của Chiến dịch Biên giới lịch sử Thu Đông 1950 đã đẩy thực dân Pháp lún sâu thảm hại vào thế bị động chiến lược. Trong các cuốn hồi ký và các cuộc hội thảo của mình về cuộc chiến tranh Đông Dương, các tướng lĩnh và các nhà sử học Pháp đều cho rằng họ có hai thất bại đau đớn và cay đắng nhất, đó là thất bại ở Mặt trận đường 4 và Mặt trận Điện Biên Phủ. Suốt quá trình chiếm đóng ở Mặt trận đường 4, họ bị tử nạn hơn 6000 quân tinh nhuệ cơ động lính Âu-Phi. Họ gọi con đường 4 là “Con đường không vui!”, “Con đường chết”. Đây là mặt trận quân lính viễn chinh Pháp chết nhiều nhất, thất bại lớn thứ hai sau Mặt trận Điện Biên Phủ.

Ngược lại, Cao Bằng và Lạng Sơn hoàn toàn giải phóng, căn cứ địa và hậu phương chiến lược của ta càng được mở rộng và củng cố thêm vững chắc, lại được liên thông với các nước bạn, được sự chi viện đắc lực và chí tình của bạn bè quốc tế, không chỉ tạo cho ta có thế và lực càng thêm vững mạnh, còn mang lại cơ hội lớn cho cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta chuyển sang giai đoạn mới-giai đoạn phản công, chủ động tiến công và chuẩn bị tổng phản công địch.

Bác Hồ ra mặt trận, không những nói lên ý chí quyết chiến quyết thắng cao nhất, tình đoàn kết keo sơn trên dưới một lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, nó còn có ý nghĩa khác quan trọng và đẹp đẽ hơn nhiều, đó là biểu tượng của chân dung một con người suốt đời hy sinh cao cả, chỉ biết sống vì nước vì dân, khổ trước thiên hạ và vui sau thiên hạ, hướng tất cả tâm hồn mình cho hạnh phúc của nhân dân và sự nghiệp cách mạng.

Kỷ niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, 65 năm ngày Quốc khánh, 120 năm ngày sinh của Bác, mọi người chúng ta, nhất là cán bộ, đảng viên, đặc biệt là đội ngũ những người lãnh đạo chủ chốt các cấp, hãy ghi sâu lời dạy “Dĩ công vi thượng” của Bác, không mang danh lợi cá nhân, đặc quyền đặc lợi, đặt nhân dân và Tổ quốc lên trên hết thảy, tu dưỡng và làm theo lời Bác hằng ngày, nhất định chúng ta sẽ xây dựng được Đảng ta ngày càng vững mạnh, trong sạch, văn minh, tiến bộ, đất nước giàu mạnh, nhân dân ấm no, hạnh phúc như lòng Bác hằng mong muốn.

Ngày 15 tháng 9 năm 2010

HỒ NGỌC SƠN