 |
Cháu Diệp vừa hồi phục sau ca mổ ghép gan ngày 31-1-2004. Ảnh: Lê Hải |
QĐND Online - “Bố tôi, GS.TSKH, thiếu tướng Lê Thế Trung nay đã 80 tuổi nhưng vẫn gắn bó với ngành y. Con trai tôi, Lê Trung Hiếu cũng nối nghiệp gia đình, hiện là sinh viên năm thứ ba Học viện quân y. Bản thân tôi sinh ra đã trót mang “duyên nghiệp” với nghề y. “Tam đại đồng đường” mỗi lần ngồi cùng nhau toàn nói về mổ xẻ, nghiên cứu và các thể nghiệm mới trong y học trên thế giới”… PGS. TS, Đại tá Lê Trung Hải, trưởng khoa Phẫu thuật bụng bệnh viên 103 - Học viện Quân y bộc bạch với chúng tôi như thế…
Chuyên gia của những ca đại phẫu
Tôi có may mắn được chứng kiến PGS.TS Lê Trung Hải cùng kíp mổ thực hiện ca phẫu thuật lấy đầu đạn đã nằm 37 năm trong ổ bụng CCB Lương Văn Giang (Bắc Giang) vào ngày 15-5-2007. Ca mổ mà nhiều người phải thán phục thốt lên rằng: “Thật tuyệt vời. Tử thần cũng phải chào thua”. Cái khó của ca phẫu thuật này nằm ở chỗ kíp mổ phải tiến hành lấy đầu đạn nằm ở nơi rất hiểm: “đầu nhọn viên đạn chui nằm phía sau, đuôi găm vào cốt mạc của xương, đầu nhô ra sát ngay động mạch chậu, tĩnh mạch chậu, nơi dây thần kinh vắt qua, xế trên là đường niệu quản, phía dưới là dây thần kinh hông to… sơ sảy một chút sẽ gây tổn thương vào các thành phần cận kề, và hậu quả không thể lường hết được”. Thành công của kíp mổ do PGS.TS Lê Trung Hải thực hiện đã khẳng định sự vững vàng trong chuyên môn cùng bản lĩnh nghề nghiệp của những người trong cuộc.
Ca phẫu thuật đó chỉ là một trong số rất nhiều ca khó, thành công mà anh đã từng tham gia. Trước bất kỳ ca mổ dù đơn giản hay phức tạp, anh cũng đều chuẩn bị hết sức chu đáo, tỉ mỉ và cẩn thận trong từng vật dụng tới những thao tác mổ. Anh bộc bạch: Nếu anh chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng cho ca mổ đầu tiên thành công thì tới ca mổ thứ hai, mọi việc sẽ phải làm cẩn trọng gấp đôi. Làm nghề y không được phép chủ quan vì người thầy thuốc luôn phải đối mặt và tự chịu trách nhiệm đưa ra quyết định khi ranh giới giữa sự sống và cái chết của người bệnh chỉ được tính bằng giây. Nếu chỉ chần chừ trong tích tắc, số phận người bệnh sẽ không do ta quyết định được nữa.
Lê Trung Hải đã có nhiều thời gian học tập và tham gia các cuộc phẫu thuật ghép tạng trên thế giới như phẫu thuật ghép gan ở Nhật, mổ ghép thận ở Mỹ và Đài Loan, mổ cắt gan ở Xin-ga-po…. Những kiến thức đó anh áp dụng trong nước. Tháng 6-1992, anh là người trực tiếp tham gia những ca ghép thận đầu tiên ở Việt Nam, mang lại nhiều hy vọng cho các bệnh nhân. Đến năm 1996, anh cũng là một trong số những người đầu tiên tham gia áp dụng phương pháp phẫu thuật nội soi ổ bụng vào bệnh viện 103. Theo đánh giá của y học, phương pháp mổ nội soi hiện được áp dụng nhiều nhất vào mổ tiết niệu, ổ bụng (cắt túi mật, ruột thừa)… nó không chỉ giúp cho vết mổ ở bệnh nhân đảm bảo thẩm mỹ, phục hồi nhanh sức khoẻ, hạn chế biến chứng, mà chi phí không quá cao.
Ngày 31-1-2004, ca ghép gan đầu tiên được tiến hành ở Việt Nam, khẳng định bước tiến dài trong phẫu thuật ghép tạng của y học trong nước. Người được Học viện Quân y thực hiện ghép gan là cháu Nguyễn Thị Diệp, 10 tuổi, quê xã Hải Minh (Hải Hậu, Nam Định). Ca ghép gan do đại tá, bác sĩ Lê Trung Hải là kíp trưởng của phía Việt Nam trong phẫu thuật lấy gan và ghép gan. Anh tâm sự, ghép gan là mơ ước của ngành ngoại khoa từ rất lâu, đồng thời cũng là sự trông đợi và hy vọng của gia đình bao người bệnh. Khoa học cho phép có thất bại và có sai lầm, nhưng ca ghép gan đầu tiên này không thể để thất bại. Điều này tạo áp lực rất lớn với kíp mổ thực hiện ca phẫu thuật. Trước đó, để chuẩn bị cho ca ghép gan đầu tiên, bác sĩ Lê Trung Hải và các đồng nghiệp đã phải tiến hành hàng trăm ca ghép thí nghiệm trên động vật. Anh khẳng định: “Trước một ca phẫu thuật dù đơn giản hay phức tạp, bác sĩ phải đảm bảo hai yếu tố: bản lĩnh vững vàng và chuyên môn chuẩn xác”.
Ca ghép gan diễn ra tốt đẹp, hiện cháu Diệp vẫn hoàn toàn khoẻ mạnh và thường xuyên liên lạc với các bác sĩ của bệnh viện 103. Nối tiếp sự thành công từ ca ghép gan của cháu Diệp đến nay, đã có khoảng 10 ca ghép gan được tiến hành ở Việt Nam, tất thảy đều cho kết quả tốt.
Cha là người thầy lớn của tôi
Là con của một thầy thuốc có tên tuổi, nhưng anh không bị áp lực vượt qua cái bóng khổng lồ của người cha. Ngược lại, anh tâm sự rằng, mình may mắn có người cha tuyệt vời. Cha anh, GS.TSKH Anh hùng Lực lượng vũ trang, Thầy thuốc Nhân dân, Thiếu tướng Lê Thế Trung là người nổi tiếng trong giới y học Việt Nam từ những thập niên 70, đặc biệt về ngành bỏng. Ông là người đã nghiên cứu và tìm ra hơn 50 cây thuốc chữa bỏng, từ đó nghiên cứu ra nhiều loại thuốc chữa bỏng hiệu nghiệm. Cho đến nay, ông đã có hàng chục đầu sách xuất bản về những kiến thức chuyên ngành bỏng. Nói về người cha, anh không giấu được niềm tự hào và ngưỡng mộ. Những đam mê về ngành y của cha đã truyền lửa sang anh, thôi thúc anh tiếp nối con đường và sự nghiệp của ông. Thế nhưng, để khẳng định mình anh lại theo đuổi chuyên ngành ngoại chứ không phải là ngành bỏng như nhiều người vẫn nghĩ.
 |
PGS.TS Lê Trung Hải tại phòng làm việc |
Anh vẫn nhớ như in có lần cùng cha trao đổi, thảo luận về kinh nghiệm ghép tạng, cha anh, thiếu tướng Lê Thế Trung từng hài hước rằng
: “Nếu chúng ta ghép thận thành công giống như ta đã chế tạo được xe máy. Nếu ghép gan thành công ví như ta hoàn toàn tự sản xuất được ôtô. Còn khi nền y học nước nhà ghép được tim thì có lẽ Việt Nam chế tạo được máy bay hiện đại nhất”. Câu nói của cha là động lực thôi thúc anh không ngừng nghỉ sự học hỏi và tìm kiếm những kiến thức y học tiến bộ trên thế giới.
Chữ “tâm” của người thầy thuốc
Quan niệm của anh, người thầy thuốc phải có trái tim thương yêu và đồng cảm cùng người bệnh. Bản thân anh đã tham gia hàng nghìn cuộc phẫu thuật, nhưng vẫn có những cuộc phẫu thuật không giữ người bệnh qua được cơn hiểm nghèo. Điều đó lại thôi thúc anh tiếp tục làm việc, tiếp tục nghiên cứu để giúp những người mắc bệnh hiểm nghèo có thêm những giây phút quý giá ở lại cùng gia đình. Vì vậy, khi xin chữ, người ta thường mong chữ Nhẫn, chữ Tài, chữ Đức, riêng anh anh chän chữ Chuyên. Chuyên là chuyên cần, chuyên nghiệp, chuyên sâu. Anh tin, với vốn kiến thức dầy dặn, bác sĩ sẽ có những quyết định tốt nhất giúp ích cho người bệnh.
Qua các cuộc nói chuyện, Lê Trung Hải rất ít nói về bản thân, nhưng chúng tôi biết, anh là một trong những bác sĩ được phong chức danh Phó giáo sư khi mới ở độ tuổi 45, là người có trong tay vốn liếng ngoại ngữ khá giàu có với bốn thứ tiếng Anh, Pháp, Nga, Đức. Năm 2005, anh vinh dự là đồng tác giả của cụm công trình ghép tạng được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh. Hiện anh đang là Phó chủ tịch hội Phẫu thuật nội soi Việt Nam; Ủy viên Thường vụ hội gan mật Việt Nam. Được thừa hưởng niềm đam mê nghiên cứu y học từ cha và ông, con trai anh (hiện là sinh viên năm thứ ba Học viện Quân y) cũng rất “bận rộn” với các đề tài khoa học. Ba năm liền là sinh viên giỏi, danh hiệu chiến sĩ thi đua năm 2007.
Cần cù, miệt mài, sáng tạo đã xây nên chữ thành công trong lĩnh vực anh theo đuổi. Song, những điều đó vẫn chưa làm anh hài lòng. Với anh, kiến thức y học là vô hạn, trong khi sự tiếp thu của con người chỉ là hữu hạn mà mong ước trong anh muốn được cống hiến cho khoa học với nhiều công trình nghiên cứu, nhiều đóng góp cho nền y học nước nhà. Lời nhắc nhở của anh với con trai Lê Trung Hiếu cũng chính là lời nhắc nhở với bản thân: “Làm nghề y phải luôn đặt cái tâm lên đầu. Phải coi tính mạng bệnh nhân là số một. Nếu mình dốt thì người thiệt thòi sẽ là bệnh nhân”…
Bài và ảnh: Kim Anh