 |
Ảnh: laodong |
Tổ quốc thiêng liêng
QĐND Online -10 giờ 35 phút, trước khi đi vào mốc số 77, cả đội dừng chân ăn chút bánh ngọt – quà quê của một đồng chí trong đơn vị trả phép mang theo. Thú thực bình thường chắc chẳng bao giờ tôi đếm xỉa đến bánh ngọt, nhưng lúc này không hiểu sao nó ngon đến vậy… 5 chai nước mang đi đến lúc này chỉ còn 1 chai. Tất cả đã biến thành mồ hôi bốc theo sương núi mất rồi.
Anh Súm chỉ vào bãi đá cuội kể: “Ngày trước bọn anh dựng lán ngủ lại qua đêm ở đây đấy! Chà, đêm đó đang ngủ trong lán thì trời đổ mưa rừng, sấm chớp như muốn rạch núi ra. Mưa như người ta đổ chậu nước vào đầu mình. Đang nằm trong lán thì lũ về (do nằm gần khe nước). Anh em vừa kịp chạy ra thì nước ập vào cuốn đi hết mọi thứ. Thế là đêm đó thức dưới mưa, lạnh muốn chết luôn ấy”! Anh kể với khuôn mặt bình thản. Hình như với người đội trưởng dày dạn kinh nghiệm này, những chuyện như vậy là quá bình thường trong cuộc đời binh nghiệp của anh.
Mốc 77 nằm ở độ cao hơn 2.000m so với mực nước biển. Theo kế hoạch, chúng tôi sẽ lên kiểm tra mốc này trước, mốc 76 sẽ tuần tra sau. Dù rất mệt nhưng tôi vẫn rạo rực vì sắp được đến nơi bản đồ Việt Nam vẽ bằng đoạn gạch đứt lớn – biên giới Việt – Trung. Đường lên mốc 77 phải đi qua một rừng thảo quả lớn, sau đó vào một rừng thảo quả mới trồng. Người dân phát nương trồng thảo quả nên đã xoá mất dấu vết con đường mòn lên mốc. Anh em chúng tôi hoàn toàn mất dấu con đường. Giờ đã muộn, quay lại tìm đường khác sẽ không kịp thời gian về nhà. Đội trưởng Súm ra lệnh: “Mở lối, tìm đường, tiến lên mốc bằng mọi cách”. Chúng tôi bắt đầu cuộc luồn rừng trong cái lạnh đến ghê người nơi đỉnh cao rừng núi.
Chiến sỹ Trang Văn Thành đi trước cầm dao mở lối, tiếp sau là Đội trưởng, tôi đi giữa, kế đến là Đèo Văn Thành mang súng, cuối cùng là Cầm Văn Hoà phải mang ba lô đồ ăn nên đi chót. Rừng ở đây toàn là cây sặt (có nơi gọi cây rui) mọc san sát, cây nào cũng giống cây nào. Trên độ cao này cây sặt nào cũng to ngang cổ tay người lớn bởi bám một lớp rêu dày đặc. Nước từ lá dồn xuống thân cây, trữ lại trong lớp rêu đó, gió lùa và sương núi khiến nó lạnh như cây kem mỗi khi bám vào! Rừng này đặc biệt nhiều rắn và vắt. Mới lách rừng được mấy phút tôi đã thấy buồn buồn nơi cổ chân - một chú vắt đang ngo ngoe tìm nơi máu tốt mà cứa. Nhìn sang Hoà đi sau đã thấy máu nhoét cổ chân vì vắt cắn. Lên đến đây gió mạnh như bão. Gió lồng sương xuống dưới tán cây, thổi vào mặt vào người chúng tôi. Sương đọng được bao nhiêu trên cành lá đều bị gió tuốt xuống, ném tất cả vào người, anh em ai nấy ướt như chuột vừa rơi vào vũng nước. Gió mạnh, ở trên cao nên mọi người đều run lên vì rét. Mỗi đoạn đến gần gốc cây to, anh Súm lại thúc Thành phát nhanh cây kẻo đứng lâu dưới tán cây dễ bị cành cây gẫy, cây đổ vào người. Chúng tôi di chuyển với tốc độ… nhích. Rừng quá dầy, cả đội chỉ có một con dao; Trang Văn Thành phạt cây cật lực. Những gốc sặt bị đốn chéo để lại cái gốc nhọn như chông, chẳng may ngã vào thì coi như hết! Chiếc ba lô của tôi đã được chuyển ra đeo trước ngực phòng bị ngã vào gốc sặt vừa để bảo vệ cho chiếc áo sơ mi trắng (do thiếu kinh nghiệm nên tôi mặc áo trắng bên trong áo rét, giờ đã cởi mất áo rét rồi) khỏi bị bẩn. Nước từ những đám rêu trên thân sặt lạnh như nước trong tủ kem. Bàn tay trái tôi mất hoàn toàn cảm giác vì phải bám quá lâu vào thân sặt sũng nước lạnh mà tiến lên. Chiếc gậy nứa lúc nào giờ đã toét hết, vỡ toác ra vì phải chống nhiều quá. Chiến sĩ Đèo Văn Thành đi sau tôi liên tục bị vướng súng vào dây rừng, Hoà phía sau phải gỡ cho mới tiến lên được.
Chúng tôi nhích từng tí một. Thỉnh thoảng đến một gốc cây to lại phải có một người leo lên xác định phương hướng, nhưng lần nào tụt xuống cũng mang theo cái lắc đầu: “Sương dầy quá, có nhìn xa quá được 10m đâu!”.
Gần 2 giờ mò mẫm, luồn lách trong rừng, chúng tôi cũng tìm được mốc giới. Cương vực bờ cõi Tổ quốc Việt Nam thiêng liêng của tôi là đây! Bên kia là nước bạn. Chỉ cần một bước chân là tôi đã ra ngoài lãnh thổ Việt Nam. Bao nhiêu đời tranh đấu, bao nhiêu cuộc thương thuyết, bao máu xương đổ xuống cũng chỉ mong một ngày nơi biên giới này có một phiến đá hai mặt khắc tên hai nước được dựng lên, từ đó nhân dân hai bên sẽ có cuộc sống bình yên trên mảnh đất cha ông của mình mà vĩnh viễn không còn cảnh can qua loạn lạc nữa. Từ đó, trên bản đồ thế giới, ảnh chụp từ vệ tinh mãi tít trên cao sẽ có đường ranh giới rõ ràng, bắt đầu từ những điểm mốc như thế này… Đói, rét, mệt, song anh Súm ra lệnh: “Kiểm tra mốc giới! Tìm đường ra! Xuống dưới lán thảo quả mới ăn cơm”. Lúc này đã gần 1 giờ chiều
Bữa cơm trong rừng
Đó sẽ là một bữa cơm ngon nhất đời phóng viên của tôi.
Gần 2 giờ chiều mới tới được lán sấy thảo quả của người dân. Tay tôi đã hoàn toàn mất cảm giác, chiếc áo trắng trên mình loang lổ các màu. Tôi cố dùng tay để gỡ chiếc khuy áo ra mà không thể làm được. Các ngón tay đã không nghe theo sự điều khiển của tôi.
Giữa chốn ẩm ướt thế này, tôi đang lo không biết sẽ lấy gì để nhóm bếp vì ngay cả củi khô dự trữ trong lán cũng bị sương thấm ẩm hết. Trang Văn Thành là người có kinh nghiệm trong những chuyến đi như thế này; trước khi xuất phát đã chuẩn bị rất nhiều báo cũ để nhóm bếp. Thật không may, khi luồn rừng tập báo cũng bị ướt mất. Loay hoay mãi, cuối cùng đụn lửa cũng được nhen lên. Khói! Lửa cháy to bao nhiêu thì khói bấy nhiêu. Bếp bốc khói thì người anh em chúng tôi cũng nghi ngút hơi nước. Cánh tay trái của tôi sau một hồi hơ và nặn cũng đã cử động được. Ngồi gần lửa lúc này chỉ cảm thấy rát chứ không thấy ấm. Ai nấy đều rét nhưng nhanh chóng “triển khai” bữa cơm. Cái dạ dày của tôi lúc này đã “đấu tranh” dữ lắm rồi!
Một ăng gô lớn đựng cơm được dồn ra báo. Một túi nilon thịt đã xào qua. Một túi nữa là rau cải cũng đã xào qua. Mọi thứ đều lạnh như kem. Lán này xa nguồn nước nên chúng tôi không thể nấu canh được, thậm chí không thể rửa được cà chua và rau thơm. Tất cả: rau thơm, cà chua, thịt, rau dồn hết vào ăng gô cho lên bếp đun và chúng tôi gọi đó là món xào. Bày lên báo có thêm một dúm muối, 4 quả ớt khô nướng, hai nhánh tỏi và đặc biệt có thêm hai chiếc hoa thảo quả thái lát chấm muối. Trong đời tôi chưa được ăn bữa cơm nào ý nghĩa và ngon lành đến vậy. Chai nước cuối cùng dự trữ cũng đã hết, chiếc chai được giữ lại để đựng nước suối khi khát sẽ uống.Thế mới biết anh em chiến sĩ khổ thế nào khi đi tuần. Khi còn ở đồn, anh Kỷ kể chuyện có lần đi tuần do việc ngoài kế hoạch phải ở lại thêm nhiều ngày mà lương thực thì hết, phải ăn cả lá chè rừng, say vàng mắt mà vẫn phải bám trụ đến cùng.
Bắt phạm
14 giờ 30 phút, chúng tôi lại lên đường. Mốc 76 dễ đi và gần hơn mốc 77 nhiều nên chỉ mất gần một giờ đồng hồ chúng tôi đã tới nơi. Anh em nhanh chóng kiểm tra mốc giới, kiểm tra xung quanh mốc rồi rút về. Tôi để ý không thấy một ai trong đội đặt chân sang đất bạn dù chỉ là nửa bước chân: “Anh Kỷ đã có lệnh: cấm mượn đường, không được xâm phạm lãnh thổ nước bạn”. Mọi đặc điểm và biểu hiện cho thấy mốc không bị hư hỏng, dịch chuyển hay phá hoại. Rời mốc về đã hơn 15 giờ.
Lúc này tôi mới có dịp để ý hai bên đường thỉnh thoảng lại có một vài bông hồng trà đỏ thắm. Hoà tranh thủ lúc nghỉ chân đã gồ được một ba lô cành chè có cả lá già lẫn búp non về cho đơn vị nấu nước.
Ra gần hết rừng già chợt có tiếng người dân tộc lao xao. Kinh nghiệm mách bảo, anh Súm ra lệnh anh em im lặng và quan sát. Phía dưới chân dốc có một toán người đang trao đổi hàng hoá. “Bắt phạm!”, sau tiếng hô của đội trưởng, cả đội nhào đi như những mũi tên; tôi cũng lập tức rút máy ảnh bám theo. Toán người nhìn thấy bộ đội biên phòng tháo chạy hết bỏ lại những gùi và đồ lề để tháo thân. Đến nơi chỉ còn hai người phụ nữ người dân tộc Dao đang ăn cơm và một đối tượng (nam) người Trung Quốc khoảng gần 50 tuổi (không chạy được) đang lập cập thu dọn đồ. Trang Văn Thành như không biết mệt vẫn đuổi theo đám người. Cậu đuổi theo một phụ nữ. Do chạy nhanh quá nên khi người kia bị vấp ngã, không dừng kịp, cậu đành nhảy qua người ta; đến khi đứng lại được thì đối tượng đã chạy mất!!
Ngay lập tức anh Súm hỏi giấy tờ đối tượng bị bắt bằng tiếng Quan Hoả khá thành thạo nhưng ông ta không có. Đề phòng nguy hiểm, Hoà được lệnh khám người đối tượng. Đây là đối tượng vượt biên, xâm phạm lãnh thổ trái phép nên phải đưa về đồn xử lý sau. Tôi hớn hở vì chụp được những bức ảnh “độc”, còn Trang Văn Thành thì hậm hực vì đã nhảy qua người đối tượng rồi mà vẫn không bắt được.
Gần 7 giờ tối, chúng tôi về đến đồn, hoàn thành nhiệm vụ, không để tổn thất về khí tài và con người, đối tượng được giao đồn xử lý. Ngay trong tối đó, Phàn Trung Siểu – tên đối tượng- sau khi được giáo dục đã được đưa ra biên giới để trở về nhà.
Chuyến đi kết thúc, trong tôi đọng nhiều hình ảnh đáng nhớ: từ những tán rừng rợp thảo quả, những cây chè vừa người ôm, những cây cầu gỗ mục, cảnh cạm bập vào chân anh Súm, hương vị của bữa ăn trong rừng và đặc biệt nhất là hình ảnh những ngôi sao trên mũ các chiến sĩ biên phòng nổi bật lên giữa nền xanh của rừng núi, nhấp nhô, nhấp nhô. Tất cả những điều đó in đậm mãi trong tôi như một lời nhắc nhở: đừng quên nơi biên giới vẫn có những ngôi sao sáng cả ngày lẫn đêm để soi tỏ từng tấc đất của Tổ quốc thân yêu và thiêng liêng mà tôi đang sống.
Khánh Kiên