 |
Trên đường tuần tra của bộ đội biên phòng Bản Lầu, huyện Mường Khương (Lào Cai). Ảnh: Quang Thái |
QĐND Online - Tại đồn Biên phòng 289 (Sì Lờ Lầu), khi chúng tôi thể hiện ý muốn đi tuần tra biên giới cùng anh em cán bộ chiến sĩ của đồn, mọi người đều ngạc nhiên. Đồn phó trinh sát Trần Nguyên Kỷ nói: “Các anh định đi tuần thật à? Có đi được không đấy? Anh em chúng tôi thì bình thường thôi, chỉ sợ chân nhà báo…”. Câu nói bỏ lửng cùng nụ cười vẻ lo lắng của anh cho thấy sự gian nan khi tham gia tuần tra đường biên cùng bộ đội. Như đã định, tôi và Thông Thiện (phóng viên của Tạp chí Văn nghệ – Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Lai Châu) vẫn nhất định xin đi, đem sức thư sinh đi “đo” mấy chục km đường rừng…
Lên đường
5 giờ 30 phút sáng. Bình thường giờ này tôi vẫn còn nằm trong chăn và chẳng có một sức mạnh nào có thể tách tôi ra khỏi “cái kén” ấm áp ấy. Hôm nay, niềm háo hức được lên “đường viền” của Tổ quốc thân yêu khiến ngay khi nghe tiếng kẻng báo thức đầu tiên, tôi đã dụi mắt dậy tập thể dục cùng cán bộ chiến sĩ của đồn. Trong bữa ăn sáng, anh Trần Nguyên Kỷ cho biết hôm nay chúng tôi sẽ đi tuần mốc nào và những ai được đi. Thông Thiện tiu hỉu vì phải ở nhà do chân đau: “Thôi, đi thì ghi chép cho cẩn thận về kể nhé”.
Buổi sáng nơi miền biên viễn, mặt trời như trễ nải hơn trong lớp mền sương núi bồng bềnh. Đúng 7 giờ, đội tuần tra biên giới tập hợp và nhận nhiệm vụ. 5 bóng áo xanh đứng trong sương, súng ống dao rựa chỉnh tề nghe phổ biến nhiệm vụ. Hôm nay chúng tôi sẽ đi tuần hai mốc biên giới gần nhất trong phạm vi quản lý của Đồn để có thể đi về trong ngày (anh Kỷ đã sắp xếp để tôi không phải đi quá xa và vất vả).
15 phút nhận nhiệm vụ nhanh chóng kết thúc, toàn đội 3 chiến sĩ một cán bộ đội trưởng xếp hàng một lên đường tuần tra.
Mặt trời chưa rạng, 5 người chúng tôi (Đội trưởng Vàng Văn Súm, chiến sĩ Trang Văn Thành, Đèo Văn Thành, Cầm Văn Hoà và tôi) khẩn trương lên đường. Dù là mốc gần nhưng nếu đi chậm sẽ phải ngủ rừng! “Đi tuần tra điều đáng lo nhất là thiếu nước” - đội trưởng Vàng Văn Súm tỏ ra là người có kinh nghiệm nhất khuyên. Chính anh tạt vào một quán nhỏ tại trung tâm xã để mua 5 chai nước cho 5 anh em. “Cái này chỉ để dự phòng thôi, bình thường chúng tôi toàn uống nước suối…”.
Mới vào rừng được khoảng 2km, người tôi đã nóng bừng, hai bắp chân tức như muốn vỡ, chiếc áo rét lụ xụ lúc này trở thành thừa thãi vô duyên. Mồ hôi túa ra bị gió rừng, sương lạnh tạt vào khiến mặt lạnh toát, còn toàn thân thì nóng râm ran. Cả đội vẫn cứ đi. Nhìn những bóng áo xanh nhấp nhô, lên xuống theo địa hình con đường, tôi cứ tưởng tượng họ được hình thành từ sắt đá. “Sắt đá gì đâu, anh em chúng tôi đi nhiều thành quen ấy mà. Tuần nào chúng tôi chẳng phải đi, đấy là còn chưa kể có những tuần đi nhiều lần do có việc đột xuất. Mà đường này có mùi mẫn gì. Nhà báo phải đi những mốc 78, 79 mới thấm thía cơ…” chẳng biết hai mốc kia như thế nào chứ đến lúc này thì “nhà báo” mà anh Súm nhắc đến đã muốn hụt hơi rồi!
Con đường tuần tra biên giới thật hiểm trở. So với nhiều nơi, cán bộ, chiến sĩ có thể đi xe máy, xe chuyên dụng để tuần tra thì đây chỉ là một con đường sơn tràng không hơn không kém. Chúng tôi vượt qua những con dốc phải kéo gối lên ngang ngực mà leo, người sau nhìn lên chỉ thấy gót giầy người đi trước. Lại có đoạn phải vượt qua những khe suối, nước lạnh buốt, đất ướt nhoét đế giầy. Càng vào sâu, đường càng hẹp, không khí ẩm ướt, sương núi càng đượm hơn; lạnh thấu tay chân còn người thì nóng hừng hực. Sương cứ quyện gót giầy, gió cứ lùa kẽ tóc vù vù như bầy ong bốc tổ, đoàn chúng tôi vẫn cứ đi - đến nơi chia tách địa giới giữa nước ta với nước bạn.
Những ánh sao trên đường tuần tra
Đã gần 10 giờ sáng mà đường chúng tôi đi vẫn chưa nhìn thấy sắc vàng của mặt trời. Không gian vẫn âm u, nhờ nhạt do bị quá dầy sương núi bao phủ. Càng đi càng khó, có những đoạn cả đoàn phải bấu víu nhau mà vượt qua những cây cầu gỗ mục bắc ngang khe nước, hay bước thấp bước cao trên những bãi đá gồ ghề trơn truội; lại có chỗ phải cúi mình, bò dưới những thân cây to vừa bị gió quật đổ chắn ngang đường đi. Cầm Văn Hoà - chiến sĩ của đội thể hiện kiến thức rừng núi của mình bằng kể vanh vách tên những loại cây, loài hoa, loài nào có độc…
Đường tuần tra vừa như nơi rèn sức, thử ý chí của chiến sĩ biên phòng, lại vừa như một áng thơ tình nuột nà được điểm xuyết bởi tiếng chim hót, những loài hoa rực rỡ, những cảnh đẹp hy hữu của thượng ngàn. Rừng ở Sì Lờ Lầu này rất nhiều chè hoang. Những gốc chè cổ thụ gốc to hai người ôm, cao chót vót hướng sáng, thỉnh thoảng lại rụng xuống một vài bông hoa trắng phốp. Có đoạn đường hoa chè rụng nhiều như ai đó mang bỏng ngô rắc khắp cả một tán cây. Mùa này chè đang ra búp xuân, những búp đầu năm này mà chế biến cẩn thận thì chắc chắn sẽ ngon chẳng kém những loại chè thượng hạng nào.
Mùa này cũng là mùa thảo quả ra hoa. Dưới tán rừng đại ngàn hoang vu là những rừng thảo quả mướt mát, xanh đến lút tầm mắt nơi cuối dốc. Mỗi khi đường qua rừng thảo quả, anh em chúng tôi lại tranh thủ hít cho căng lồng ngực cái mùi hương thơm nồng và đặc trưng của loại cây gia vị đặc biệt này. Cầm Văn Hoà, chiến sĩ mới nhập ngũ, lần đầu tiên được đi tuần ở mốc này như bị hút trong những lúp lá thảo quả đi hẳn phía sau đoàn. Đội trưởng Vàng Văn Súm như không biết mệt, vừa đi vừa kể chuyện. Giọng anh đều đều như đang ngồi chơi chứ chẳng giống đi tuần chút nào: “Mỗi lần đi tuần qua nơi bà con thu hoạch, sấy thảo thì thơm lắm”. Chỉ một bông hoa thảo, anh nói: “Loại hoa này cũng ăn được đấy! Cứ thế này chẳng cần rửa, chỉ bóc bỏ lớp vỏ ngoài là ăn được thôi! Trời lạnh thế này mà ăn một vài lát hoa thảo quả chấm muối thì cơ thể nóng lên ngay”. Tò mò, đến nơi có người, tôi tranh thủ xin ngay vài bắp hoa để trưa nay thưởng thức.
Đã đi được khá xa, đôi chân tôi như muốn “đình công” phản đối, đôi giầy thể thao ướt nhẹp dưới chân. Nhân lúc giải lao, tôi tranh thủ “thửa” cho mình một chiếc gậy nứa. Kinh nghiệm của người đi rừng là mang theo một chiếc gậy, vừa là vũ khí chống rắn rết, thú dữ vừa làm gậy chống, vạch đường. Cả đội mới chỉ có một mình tôi phải dùng gậy và rất có tác dụng.
Mọi người vừa đi vừa nói chuyện vui vẻ, bỗng tôi nghe một tiếng panh giòn đanh. Anh Súm vừa nhấc chân lên, lập tức một chiếc bẫy tròn hình chiếc kiềng trong bếp (thường gọi là cạm kiềng) bập thẳng vào gót giầy. Cũng may anh đi nhanh, có giầy (hơn nữa loại cạm này còn nhỏ) nên anh không bị thương tích gì. Chưa đầy 15 phút sau, chiến sĩ Cầm Văn Hoà cũng bị một chiếc cạm tương tự sập nhưng không việc gì. Đây là loại cạm dùng để bẫy thú nhỏ của bà con: “Họ phải đặt ở nơi có lối đi mới dễ có thú đi vào” - anh Súm giải thích thắc mắc của tôi tại sao lại đặt bẫy giữa đường. Chuyến đi thêm thú vị vì từ lúc này chúng tôi phải thật chú ý để phát hiện ra nơi đặt bẫy mà thu lại, tránh để sập vào người khác. Tổng cộng thu được 4 chiếc như vậy (khi về thêm một nữa là 5), trong đó có một chiếc “gặm” được vào mũi giầy của chiến sĩ Trang Văn Thành. Cũng may do mang giầy bộ đội, mũi giầy có bịt cao su nên không bị thương.
Sương vẫn rất dầy, mỗi khi có gió mạnh, trên cây cao lại rũ xuống những hạt sương nặng như hạt mưa, rào rào, lộp bộp. Nhìn lại phía sau tôi chẳng thấy chiến sĩ đâu cả, mà chỉ thấy những ngôi sao trên mũ biên phòng nổi bật trong sương và nhấp nhô theo địa hình di chuyển.
Khánh Kiên (Còn nữa)