QĐND - Cuộc Cách mạng Tháng Tám-1945 đã hấp dẫn những văn nghệ sĩ danh tiếng của thời thuộc Pháp: Thế Lữ, Song Kim, Nguyễn Xuân Khoát, Lương Ngọc Trác, Từ Bích Hoàng, Đinh Ngọc Liên, Vũ Tú Nam…  Và họ trở thành nòng cốt của Tổng đội Văn công, Cục Tuyên huấn (Tổng cục Chính trị) quân đội quốc gia Việt Nam.

Tổng đội Văn công đã biểu diễn và sáng tác phục vụ bộ đội và nhân dân vùng kháng chiến, đưa văn hóa cách mạng kháng chiến đến mọi nẻo đường kháng chiến của quân đội ta… Dấu ấn của tổng đội còn mãi với thời gian là hai bài hát “Chào mừng Đảng Lao động Việt Nam” của Đỗ Minh và “Vì nhân dân quên mình” của Doãn Quang Khải, có một sự hỗ trợ hiệu quả của Nguyễn Xuân Khoát.

Mùa xuân năm 1951, ngày 15-3, thành lập Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị nơi đại ngàn Việt Bắc-Thủ đô kháng chiến.

Những chàng trai, cô gái tuổi mười chín, đôi mươi náo nức ra đầu quân theo người chiến sĩ. Nhạc sĩ Đỗ Nhuận và các đồng đội của ông: Hoàng Cầm, Từ Bích Hoàng, Văn Chung và Hồ Nhị Quang lãnh trách nhiệm lãnh đạo đoàn.

Những cuộc hành quân

Chỉ sau ít ngày thành lập đoàn, cuộc hành quân đầu tiên là hướng về đồng bằng Khu 3 tham dự chiến dịch Quang Trung. Trên những chiến dịch, các dân công đồng bào Mường bên đống lửa hồng, họ dùng hai đòn cáng thương đập vào nhau cứ thế từng người nhảy ra nhảy vào. Đó là chất liệu của múa sạp sau này.

Chiến dịch tiếp theo là qua miền Tây Bắc, hướng về Nà Sản. Con đường trùng điệp ấy đã tạo dựng nên một ca khúc đến ngày nay còn vang mãi “Qua miền Tây Bắc” của Nguyễn Thành.

Đại tướng Võ Nguyễn Giáp với Đoàn Ca múa Tổng cục Chính trị sau đêm biểu diễn kỷ niệm 40 năm giải phóng thành phố Hải Phòng, ngày 13-5-1955/13-5-1995. Ảnh: T.G

Chiến dịch thứ ba, chiến dịch được huy động sức người sức của lớn nhất. Hầu hết các binh đoàn của chủ lực đã lên đường hướng về Trần Đình. Hầu hết cán bộ, chiến sĩ đều băn khoăn thắc mắc: Trần Đình ở đâu?… Trưởng đoàn-nhạc sĩ Đỗ Nhuận đã giải đáp bằng một triết lý hết sức đơn giản: Đã là người lính cách mạng thì đâu có giặc là cứ đi chứ còn thắc mắc làm gì. Đó là cái tứ mà ông đã có một bài ca đi cùng chiến sĩ, cổ vũ chiến sĩ “Hành quân xa”: Hành quân xa dẫu qua nhiều gian khổ… và đâu có giặc là ta cứ đi. Thế là cuộc hành quân xa tất cả đã đến Trần Đình. Khi các đoàn Thanh niên xung phong cùng với văn công Tổng cục Chính trị và 7 đội văn công các binh đoàn chủ lực có nhiệm vụ kiến thiết đường cho xe và pháo vào Trần Đình. Lúc này mọi người mới vỡ lẽ, Trần Đình là Điện Biên Phủ. Trong lúc làm đường, gặp phải hòn đá to, một vật cản cần phải loại bỏ, Trưởng đoàn Đỗ Nhuận đã cùng Mạnh Thắng sáng tác kịp thời vở ca cảnh "Hòn Đá". Đỗ Nhuận đóng vai Hòn Đá, ông vẽ hề-nhân cách hóa hòn đá. Khi Hòn Đá sắp bị đẩy xuống vực, Hòn Đá đã vê tay: “Xin các anh bộ đội điếu thuốc lào” (ở Điện Biên Phủ thuốc lào quý hơn vàng). Ca cảnh "Hòn Đá" đã cổ vũ cho bộ đội và dân công làm đường rất có hiệu quả. "Hòn Đá" là một tiết mục mang dấu ấn Điện Biên sâu sắc! Khi chiến dịch mở màn, đồi Him Lam bị quân ta tiêu diệt gọn, Đỗ Nhuận đã có ngay bài ca “Chiến thắng Him Lam”. Khi Điện Biên toàn thắng ông lại có tác phẩm “Chiến thắng Điện Biên”. Chùm ca khúc về Điện Biên của Đỗ Nhuận đã trở thành kỷ niệm sâu sắc của những người tham gia chiến dịch Điện Biên.

Luồng gió mới

Sau chiến thắng Điện Biên là cuộc liên hoan văn công toàn quân lần thứ nhất gồm: Văn công Tổng cục Chính trị, các đội văn công của các đại đoàn chủ lực, các đoàn văn công quân khu và các đội trực thuộc cơ quan Bộ Tổng tư lệnh. Cuộc liên hoan này đặc biệt có Đoàn Văn công Trường Lục quân đóng trên đất Trung Quốc. Đoàn Văn công Lục quân là một động lực thúc đẩy sự trưởng thành về nghề nghiệp chuyên môn trong đại hội. Đương nhiên, các đoàn đội cũng có những nét đặc sắc tạo nên thành công của văn công quân đội nói chung.

Sau cuộc liên hoan lịch sử này là cuộc sáp nhập toàn bộ các đơn vị đã có mặt ở cuộc liên hoan thành 3 đoàn Văn công Tổng cục Chính trị.

Đoàn 1 gồm Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị và Đoàn Văn công Trường Lục quân có nhiệm vụ về tiếp quản Thủ đô.

Đoàn 2 gồm các đội văn công các đại đoàn chủ lực có nhiệm vụ tiếp quản thành phố Nam Định và các vùng lân cận.

Đoàn 3 gồm các đội quân khu, các đội trực thuộc Bộ Tổng tư lệnh có nhiệm vụ đón tiếp đồng bào và bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc, tiếp đón trao trả tù binh.

Do được tập huấn thông qua cuộc liên hoan, được trang bị vật chất, trang phục… nên khí thế cao, hoạt động rất hoành tráng, tay nghề tăng lên đáng kể, được nhân dân Thủ đô vùng mới giải phóng, đồng bào và bộ đội tập kết, cả tù binh nhiệt liệt hưởng ứng hoan nghênh.

Tháng Giêng năm 1955, đoàn đi vào chuyên ngành, chuyển thành Đoàn ca vũ. Bác Hồ đổi cho chữ “vũ” thành chữ “múa”- mang tên Đoàn Ca múa Tổng cục Chính trị.

Nhân dịp giải phóng một nửa đất nước, các đoàn nghệ thuật các nước xã hội chủ nghĩa và bầu bạn khắp thế giới đến thăm và trình diễn giới thiệu nền nghệ thuật biểu diễn của bạn. Đây là một luồng gió mới đến với nền nghệ thuật biểu diễn của nước ta. Các đoàn ca múa Liên Xô, Trung Quốc, Triều Tiên, An-ba-ni… đã trao đổi kinh nghiệm sáng tác, biểu diễn, tổ chức chương trình kể cả công tác huấn luyện với Việt Nam. Với Đoàn Ca múa Tổng cục Chính trị thì Đoàn Ca múa quân đội CHDCND Triều Tiên là một hình mẫu về mọi mặt cho đoàn học tập noi theo.

Những chuyến đi

Từ trong kháng chiến, đoàn có dịp cử các nhóm nghệ thuật đi tham dự các Đại hội Liên hoan thanh niên, sinh viên thế giới tại: Béc-lin (thủ đô CHDC Đức) năm 1951, Bu-ca-rét (thủ đô Ru-ma-ni) năm 1953, Vác-xa-va (thủ đô Ba Lan) năm 1955, Mát-xcơ-va-Liên Xô năm 1957, Viên (thủ đô Áo) năm 1959 và Béc-lin lần thứ hai năm 1973. Đi thăm và biểu diễn tại các nước CH In-đô-nê-xi-a hai lần, lần 1960 và 1992. Ngoài ra, đoàn đã cử hầu hết cán bộ, nghệ sĩ, các tác giả đi tu nghiệp và học nghệ thuật ở những trường danh tiếng của các nước Liên Xô, Trung Quốc, Bun-ga-ri, Hung-ga-ri, Ru-ma-ni, Triều Tiên. Mời các chuyên gia Liên Xô, Triều Tiên sang mở lớp huấn luyện múa, hát, nhạc trưởng…

Các đoàn nghệ thuật bạn vào nước ta và những chuyến đi như thế thực sự là những luồng gió mới đem lại cho đoàn sức sống nghệ thuật vững vàng tay nghề, có đủ điều kiện để miêu tả thực tế cuộc sống chiến đấu, sản xuất và xây dựng đất nước Việt Nam anh hùng, tươi đẹp.

Lại hành quân

Sau ngày 5-8-1964, Đoàn Ca múa Tổng cục Chính trị lại tiếp tục hành quân.

Đoàn thứ nhất vào xây dựng văn công 559-Trường Sơn, do nhạc sĩ Nguyễn Thành và biên đạo Đinh Ngọc Minh phụ trách.

Đoàn thứ hai do Huỳnh Tiểng phụ trách, hành quân suốt 6 tháng vào tận Nam Bộ, bổ sung cho văn công Miền. Dọc đường, nữ nghệ sĩ múa Nguyệt Ba đã hy sinh…

Đoàn thứ ba đi phục vụ quân dân Khu 4, một tác phẩm ca cảnh “Lá đơn tình nguyện” của Doãn Nho và Quốc Bảo đã ra đời được quân dân Khu 4 nhiệt liệt hưởng ứng, hoan nghênh.

Đoàn thứ tư vào xây dựng văn công Quân khu 6 do Phong Kỳ và Xuân Sơn phụ trách. Đây là đoàn gặp nhiều khó khăn ác liệt nhất. Vừa phải chiến đấu vừa sản xuất tự lo mọi việc đời sống để sáng tác và biểu diễn. Phạm Úy và 9 nghệ sĩ khác đã anh dũng hy sinh.

Đoàn thứ năm do Trần Chất và Hồng Thuận phụ trách, vào phục vụ Mặt trận Tây Nguyên. Hầu hết bị sốt rét, chịu nhiều trận B52 nhưng Doãn Nho vẫn có sáng tác mới. Tiếng hát của Minh Nguyệt, Huy Cường vẫn vang vọng núi ngàn quê hương anh hùng Núp. Đặc biệt tấu nói của Mai Lũy được Trọng Hinh ghi đậm dấu ấn trong lòng khán giả Tây Nguyên.

Cuộc hành quân của Đội thanh niên xung kích do Nguyễn Quế và Trần Loan phụ trách vào phục vụ Sư đoàn 2 đã anh dũng vượt B52, pháo bầy, pháo tọa độ của vùng tam giác Bắc Nam và Lào. Tuy nhiên tiếng hát, điệu múa của các nghệ sĩ vẫn vững vàng đi cùng chiến sĩ Sư đoàn 2…

Cuộc hành quân của đội xung kích do Minh Tiến, Huy Thục đã lãnh đạo đội vượt qua bom đạn ác liệt của kẻ thù phục vụ bộ đội và sáng tác nhiều tác phẩm còn mãi với thời gian.

Những cuộc hành quân sang nước bạn Lào trong kháng chiến ác liệt. Huy Luân và Trần Dũng đã lãnh đạo đội xung kích phục vụ quân đội bạn và bộ đội tình nguyện Việt Nam trên đất bạn. Cũng không thể quên hai nghệ sĩ Thanh Nga và Trọng Lanh đã tận tình giúp văn công Pa-thét Lào có lần bị địch bao vây lạc đơn vị hàng tháng trời.

Những cuộc hành quân của nhạc sĩ Lương Ngọc Trác ra đảo Cồn Cỏ; Đội xung kích do nhạc sĩ Vũ Trọng Hối phụ trách đi phục vụ các đơn vị làm nhiệm vụ ở các đảo Cát Bà, Thanh Lân, Cô Tô, Bạch Long Vĩ… vượt muôn trùng sóng gió biểu diễn phục vụ quân dân trên các đảo nói trên đã đắp xây thêm bề dày truyền thống của ca múa Tổng cục Chính trị.

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược, đoàn đã nổi lên những tác giả với những tác phẩm tiêu biểu: “Chiến thắng Điện Biên” (Đỗ Nhuận); “Việt Nam trên đường chúng ta đi (Huy Du); “Đường ta đi dài theo đất nước" (Vũ Trọng Hối); “Bài ca bên cánh võng" (Nguyên Nhung); “Biết ơn chị Võ Thị Sáu” (Nguyễn Đức Toàn); “Chị Mai đi chợ” (Lê Lan); “Cây lúa Hàm Rồng” (Đôn Truyền); “Tiếng đàn Ta-lư” (Huy Thục); “Tiến bước dưới quân kỳ” (Doãn Nho); “Lá cờ Đảng” (Văn An); “Chẳng kẻ thù nào ngăn nổi bước ta đi” (Thanh Phúc); “Phi đội ta xuất kích”  (Tường Vi). Các tác phẩm múa: “Hoa ban nở” của Minh Tiến; “Con quỷ và nàng tiên” của Kim Tiến; “Vũ điệu chim công” của Ứng Duy Thịnh; “Cờ giải phóng” của Ngọc Canh… Ca khúc: “Sông Lô chiều cuối năm” của Minh Quang, “Dời đô ngàn năm vang mãi” của Nguyễn Tiến. Và còn nhiều tác giả và tác phẩm khác.

Những phần thưởng

Năm 2000, Đoàn đã được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tác phẩm múa “Ngọn lửa Nghệ Tĩnh” được Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Các nhạc sĩ Đỗ Nhuận, Huy Du, Nguyễn Đức Toàn được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Các nhạc sĩ, biên đạo được nhận Giải thưởng Nhà nước: Đỗ Minh Tiến, Lê Ngọc Canh, Lê Kim Tiến, Đôn Truyền, Ứng Duy Thịnh, Nguyễn Thành, Vũ Trọng Hối, Trọng Loan… 10 nghệ sĩ được phong Nghệ sĩ nhân dân, 51 nghệ sĩ được phong Nghệ sĩ ưu tú, 13 Nhà giáo ưu tú. Đoàn được Đảng, Nhà nước tặng nhiều huân chương cao quý và huy chương vàng, bạc các loại… của các hội diễn quốc gia và quốc tế.

60 năm đã qua với bao gian nguy song đầy vinh quang. Phía trước là cả một con đường thênh thang rộng mở cho nền nghệ thuật biểu diễn của Nhà hát Ca múa nhạc Quân đội. Tương lai đón đợi những nghệ sĩ mặc áo lính của Nhà hát Ca múa nhạc Quân đội nhân dân Việt Nam.

KHẮC TUẾ