Trên văn đàn Thái Bình hiện nay có những cây bút đang nằm viết, ngồi viết, đứng viết-y nguyên như một hằng số có thể đến hết đời. Để quen với những tư thế viết ấy họ đã phải vượt qua đau đớn về thể xác, tự rèn luyện kiên trì đầy nghị lực. Tuy đã 70 tuổi nhưng khâm phục ý chí “Tàn mà không phế” và rất mến mộ những tác phẩm văn chương của họ, tôi đã tìm đến thăm những cây bút đặc biệt này vào tuần đầu tháng 7-2008.
1. Xuất phát từ thành phố Thái Bình sau gần hai giờ tôi đến được quán bán hàng, cũng là nhà ở, là phòng văn của nhà văn Trần Văn Thước ở xóm 3, xã Vũ Lăng, huyện Tiền Hải, Thái Bình. Quán là ngôi nhà cấp 4 rộng khoảng 20 mét vuông chia làm hai gian. Gian ngoài anh chị ở bày hàng bán. Gian trong là chỗ ở của hai cụ sinh ra anh, năm nay đã hơn 90 tuổi.
Người lạ đến thì khó ai nhận ra nhà văn này. Anh hơi gầy, mặc bộ đồ nâu cũ như những người nông dân đi làm đồng về qua quán anh hút thuốc lào.
Vợ anh là người làm ruộng cùng anh nuôi cha mẹ già, ba đứa con đều đã tốt nghiệp đại học. Thước sinh ngày 15-4-1954, học hết lớp 7 đi làm công nhân đường sắt. Ngày 7-9-1979 anh bị tai nạn lao động, phải điều trị ở bệnh viện suốt sáu năm, nhưng hai chân vẫn bị liệt hoàn toàn, không ngồi bình thường được, mọi sinh hoạt cá nhân đều phải phục vụ trên giường. Anh phải quấn vải vào hai chân teo liệt cho gần bằng chân bình thường, dùng nẹp sắt kẹp lại rồi tập đứng để viết hơn chục năm nay. Vì vậy, anh em thân mật gọi anh là “Nhà văn đứng viết”.
Từ ngày bị tai nạn anh chưa bước ra khỏi nhà mình, chỉ bán hàng xén cho bà con lối xóm, tự học và quyết tâm cầm bút viết văn.
 |
Trần Văn Thước. Nguyễn Thị Minh Thuận. Đỗ Trọng Khơi. Phạm Minh Giắng. |
Có thể nói Trần Văn Thước là một trong những cây bút ở Thái Bình viết thành công về đề tài nông thôn, nông dân, nhưng anh vẫn khiêm nhường tâm sự:
“Cha mẹ tôi là nông dân. Tôi cày thông bừa thạo, vác đất rất khỏe. So với bạn bè trang lứa tôi thua thiệt sự học hành, nhưng trội hơn trong khi đánh dậm đun te... Tôi rất buồn vì chưa đủ tài viết về nông dân, nông thôn hôm nay...”. Anh trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, đã xuất bản 6 tập sách gồm thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, tiểu phẩm và đã đăng hàng nghìn bài báo, được nhiều giải thưởng văn học: Giải nhì cuộc thi viết ký của Báo Văn Nghệ (1990); Giải 3 cuộc thi truyện ngắn của Tuần báo Văn Nghệ (1989); Hai giải thưởng văn học Lê Quý Đôn của UBND tỉnh Thái Bình (1990 và 2004); Giải thưởng của Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam (1998).
2. Trời nắng như đổ lửa xuống đồng, từ nhà văn Trần Văn Thước tôi phóng xe về thôn Tiền Xá, xã Văn Cẩm, huyện Hưng Hà (Thái Bình), quê hương của nhà thơ Đỗ Trọng Khơi. Anh sinh ngày 17-7-1960 trong một gia đình nông dân nghèo, bố là liệt sĩ. Hiện nay anh ở với mẹ và cô em gái. Khơi nằm trên giường tiếp tôi thân tình như anh em trong nhà. Xung quanh giường là ti-vi, điện thoại, quạt, báo, sách và sách.
Khơi có đôi mắt rất sáng dưới vầng trán cao. Năm 1970 đang học lớp bốn thì anh bị bệnh viêm đa khớp, vĩnh viễn bị hỏng hai chân, một số đốt sống cứng lại, mọi sinh hoạt đều do người nhà chăm sóc. Bởi không ngồi được mà chỉ nằm tự học và viết văn vì vậy gọi anh là nhà văn nằm viết. May thay có sự giúp đỡ của Trường đại học Y khoa Thái Bình và các giáo sư bác sĩ ở các bệnh viện Trung ương qua hai lần phẫu thuật, năm 2006 Khơi đã ngồi ngửa được trên xe lăn để viết. Bàn tay nắm chặt bàn tay, anh nheo mắt nói với tôi: “Mọi sự tận cùng đều chứa một điểm bắt đầu mới mẻ nào đó...”. Đúng thế, cơn bạo bệnh làm anh đột qụy nhưng có chí anh đã trở thành nhà thơ của đất nước. Đỗ Trọng Khơi được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, đã xuất bản 8 tập thơ, một tập truyện ngắn, nhiều tản văn, tiểu luận phê bình… Anh đoạt nhiều giải thưởng văn học có giá trị: Giải nhì cuộc thi thơ trên Báo Văn Nghệ (1990); Giải nhì truyện ngắn do Trung ương Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam tổ chức (2002); Giải A Giải thưởng Lê Quý Đôn của UBND tỉnh Thái Bình (1996); Giải nhì truyện ngắn của Báo Tài Hoa Trẻ (1998); Giải C Giải thưởng Lê Quý Đôn của UBND tỉnh Thái Bình (2001); Giải 3 cuộc thi thơ của Báo Tài Hoa Trẻ (2002).
3. Nguyễn Thị Minh Thuận (Minh Thuận) ở cách nhà tôi không xa nên anh em thường xuyên thăm hỏi lẫn nhau. Thuận sinh năm 1955 tại xã Vũ An, huyện Kiến Xương (Thái Bình), đẹp gái nhưng từ nhỏ bị bệnh, càng lớn càng nặng, nhà nghèo nên phải nghỉ học! Chị xin bố làm cho một gian nhà tranh bên đường xóm để bán hàng xén, chấp nhận cuộc sống cô đơn. Đến nay gian nhà ấy vừa là quán bán hàng, là nhà ở, là phòng viết văn của chị. Hai chân bị liệt, hai tay co quắp, Thuận đã nghiến răng chịu đau đớn, trán vã mồ hôi cả trong đêm lạnh giá tập cầm bút, từng nét chữ hằn lên mặt giấy làm ra các tác phẩm văn học. Minh Thuận thường hay nhắc đến lời ông Nguyễn Văn Linh đại ý: Hãy tự cứu mình trước khi trời cứu. Chị trở thành hội viên Hội Văn học nghệ thuật Thái Bình, đã xuất bản 4 tập văn thơ và hàng trăm bài báo và nhận được nhiều giải thưởng: Giải nhất cuộc thi thơ “Một tâm hồn - Một thế giới” của Hội Bảo trợ Xã hội Thái Bình (2002); Giải B cuộc thi viết truyện ngắn của Hội Nhà văn Việt Nam (1984); Giải C cuộc thi viết về LLVT tỉnh Thái Bình của Hội Văn học nghệ thuật Thái Bình (2003); Giải khuyến khích cuộc thi viết truyện ngắn và thơ của Hội Văn học nghệ thuật Thái Bình (1999).
4. Tôi và anh bạn thơ xứ Lạng về Trung tâm Bảo hiểm xã hội tỉnh đóng tại thị trấn huyện Vũ Thư để thăm tác giả Phạm Minh Giắng.
Đồng chí giám đốc trung tâm niềm nở đón tiếp chúng tôi và bộc bạch: “Trung tâm rất tự hào và vinh dự được nuôi dưỡng nhà thơ Minh Giắng”. Được trung tâm bố trí một phòng riêng, xung quanh giường của anh nào là bếp điện, xô nước, ti-vi, điện thoại, ấm, xoong nồi, còn lại toàn là sách báo.
Tôi để ý dưới gầm giường anh nằm có hệ thống cho việc bài tiết cá nhân khép kín, bên mình luôn có một cái gậy nhỏ chừng hơn mét để điều khiển ti-vi, kéo màn, phơi khăn mặt… Phạm Minh Giắng sinh năm 1950 tại xã Thái Phúc, huyện Thái Thụy (Thái Bình). Giắng mới một tuổi thì cha hy sinh, ba tuổi mồ côi mẹ, anh em ruột không có ai. 15 tuổi mắc bệnh liệt cho đến nay. Cứ như dự báo của các thầy thuốc thì bệnh sẽ còn theo anh mãi mãi! Mang tấm thân đau đớn bại liệt hoàn toàn, Phạm Minh Giắng trên giường bệnh từ bấy đến nay chỉ với tư thế duy nhất là nằm ngửa trên giường. Ngửa thở, ngửa ăn, ngửa nghe, ngửa đọc, ngửa viết…! Vậy mà anh đã xuất bản tập thơ đầu tay: “Giọt mưa ngâu” từ hơn 10 năm trước và đã từng viết nhiều bài đăng trên Báo Nhân Dân, Văn nghệ trẻ, Người bảo trợ, Tuổi trẻ cười… Giắng đã đem tất cả sức lực, trí tuệ bám vào cuộc đời và còn hơn thế với trọn vẹn niềm yêu cuộc sống. Khi chia tay chúng tôi, anh nghẹn ngào đọc câu thơ nhân ngày giỗ cha “Mộ cha giữa triệu tim người/ Con bòn câu chữ rải nơi cha nằm”. Chúng tôi ai cũng rưng rưng lặng lẽ ra về thầm mong anh toại nguyện với sự nghiệp văn chương của mình.
5. Hướng về bến phà Tịnh Xuyên qua sông Trà Lý giữa mùa nước lũ chúng tôi tiếp tục về thăm nhà dịch thuật Bích Lan ở xã Minh Tân, huyện Hưng Hà (Thái Bình).
Vừa vào đến ngõ bà mẹ đón tôi niềm nở. Sau tuần nước yên vị, một cô bé mặc bộ đồ mùa hè màu vàng chanh từ phòng bên bước ra từng bước chậm chạp, nét mặt trầm tĩnh, bà mẹ giới thiệu: “Đây là em Bích Lan”. Chị không ngồi ghế mà bỏ thõng chân ngồi xổm bên mé giường tiếp khách. Thấy chị gầy đét như cây sậy, đi đứng không nhanh nhẹn tôi rất xúc động. Lan sinh năm 1976, bị bệnh loạn dưỡng cơ lúc 13 tuổi đang học lớp 8 phải bỏ. Gia đình cố chạy chữa mới giữ được thể trạng như hiện nay. Chị quyết tâm tự học văn hóa, ngoại ngữ, vi tính. Hiện nay Bích Lan được mời làm cộng tác viên cho Nhà xuất bản Phụ nữ. Chị đã dịch hơn 10 đầu sách từ tiếng Anh ra tiếng Việt, đồng thời sáng tác thơ văn được đăng ở báo trung ương, địa phương. Phòng văn của Bích Lan có giường nằm và bàn viết đơn giản nhưng khá nhiều sách trong và ngoài nước. Chị viết trên máy vi tính đã nối mạng. Khi chia tay Bích Lan, tôi xin chị chụp tấm ảnh đăng kèm theo bài viết, nhưng chị khước từ. Chị bảo: “Em bệnh tật, thôi đừng đưa ảnh lên báo nữa. Sáng tác, em cũng chưa làm được bao nhiêu, bác mà nói quá là em xấu hổ lắm”. Chị khiêm tốn nói thế, chứ thực ra chị cũng như Thước, như Giắng, như Thuận, như Khơi đã làm được rất nhiều việc có ích cho đời mà nhiều người khỏe bình thường chưa làm được.
Trên đây tôi mới nói lên được một phần nghị lực và quyết tâm vượt lên số phận chứ thực tế họ phải đánh đu với thời gian đến từng phút, từng giờ để làm việc. Trang đời nghiệt ngã về thể xác nhưng những trang văn học của họ không hề lạnh lẽo, bi lụy. Mỗi ngày sống của các anh, các chị là vượt một đoạn đường dốc, thậm chí dốc đứng. Tôi hy vọng qua bài báo này bạn đọc xa gần sẽ tìm đến những trang văn của họ và mang theo cả tấm lòng cao đẹp nâng đỡ họ đi tiếp về tương lai.
Thái Bình, tháng 7-2008
Bài và ảnh: ĐỖ LÂM HÀ