 |
Ông Lê Thanh Vân (1975). Ảnh tư liệu
|
Nếu không được tận tai nghe ông và đồng đội ông kể chuyện, ít ai có thể ngờ được người đàn ông cao dong dỏng, tóc muối tiêu với nụ cười hiền đang đùa chơi âu yếm với cháu nội ở trước mặt mình đã từng liều mình bơi gần 10km trên biển trong đêm để tránh sự truy bắt của địch và từng tự rạch bụng bằng một con dao tự chế để đấu tranh với kẻ thù... Ông là Lê Thanh Vân, sinh năm 1937 tại Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, nguyên Phó bí thư huyện ủy Hòa Vang trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Tìm sự sống ngay trong cái chết
Sau chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968, hàng loạt cơ sở bí mật nội thành của ta bị lộ, địch bắt đầu tiến hành chiến dịch cày trắng, xúc dân vào ấp chiến lược; bắt và giết rất nhiều đồng chí của ta. Lê Thanh Vân lúc bấy giờ là Thường vụ quận ủy quận 3, phụ trách việc bí mật gây dựng lại cơ sở và khu căn cứ lõm Nước Mặn (K20). Để chuẩn bị cho đợt hoạt động Hè - Thu năm 1968 (X2), ông được phân công vào nằm vùng tại Mỹ Khê (quận 3) suốt một tháng trời để gây dựng cơ sở và chuẩn bị lực lượng. Nhưng rồi kế hoạch bị lộ, địch ráo riết tiến hành càn quét. Các cơ sở của ta một lần nữa lại bị chúng bắt, phá gần hết. Trong một lần bị địch truy bắt, ông đã nhân đêm tối thoát ra vùng biển Mỹ Khê rồi liều mình bơi gần 10km để về lại khu căn cứ quận ủy quận 3 phía sau ở vùng Hòa Hải. Tuy xuất thân từ vùng biển, bơi lội từ nhỏ nhưng chưa bao giờ biển khơi lại để lại trong ký ức của ông một dấu ấn sâu đậm đến thế. Lạnh cóng trong dòng nước chảy xiết giữa đêm tối mịt mờ, một mình ông vật lộn chiến đấu với cái chết để tìm lại sự sống.
Cuối năm 1969, ông từ căn cứ về lại Hòa Hải để chuẩn bị đi vào trong khu nội quận 3. Lúc này xung quanh vùng quận 3 nhân dân đã bị dồn hết vào trong Khu tập trung, địch làm trắng cả một vùng cỏ cây, nhà cửa… chỉ còn lại một khóm rừng thưa ở gần khu vực Non Nước. Ông đang cùng một số cán bộ và du kích ẩn nấp ở đó trong cơn mưa tầm tã đợi thời cơ vào thành thì máy bay địch bất ngờ xuất hiện và nã đạn xối xả. Một số anh em ngã xuống. Ông cùng với ba du kích chạy ra phía sông Cổ Cò. Vừa nhảy xuống ngâm mình dưới nước, nép đầu vào trong đám cỏ sát mép sông thì địch đổ quân đi càn. Chúng nã súng vào khắp nơi, ông cũng bị dính đạn vào cánh tay trái, máu theo nước chảy loang ra. Biết địch sẽ phát hiện, ông cố gắng đẩy gói ni lông đựng súng và tài liệu xuống sông để cất giấu… Vừa xong thì địch đi lùng soát bờ sông và túm ngay chỏm tóc kéo ông lên bờ. Suốt mấy tháng trời, địch dùng mọi phương cách để khai thác thông tin và dụ hàng với ông. Nhưng tra khảo, đánh đập ông không khai; bắt viết để nhận diện nét chữ thì ông viết kiểu chữ khác; đưa bọn chiêu hồi lên để nhận diện, phản cung thì ông thuyết phục được tên chiêu hồi đừng khai báo ra bà con, cơ sở để làm hại đến nhân dân, cách mạng… Không khai thác được gì, đến tháng 3-1970, địch đưa ông vào nhà lao Non Nước.
Mổ bụng đấu tranh
Nhà lao Non Nước lúc đó là trại giam Vùng 1 chiến thuật của quân đội Sài Gòn với hai phân khu: Phân khu A là nơi thường xuyên giam giữ khoảng 800 tù binh bao gồm cả cán bộ cách mạng các tỉnh từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi và bộ đội miền Bắc vào Nam chiến đấu rồi bị bắt giữ. Nếu số lượng tù binh nhiều hơn thì những người mạnh khỏe sẽ bị chúng đưa ra Phú Quốc giam giữ. Phân khu B được gọi là khu Tân sinh hoạt - là nơi địch canh giữ khoảng 500 tên chiêu hồi. hằng ngày, tù binh phải lao động nặng nhọc và ăn uống rất kham khổ, thường xuyên bị bớt xén khẩu phần, áo quần rách rưới, hoàn toàn bị cách ly với thế giới bên ngoài, người nhà cũng không bao giờ được lên thăm nuôi. Vết thương trên bả vai trái của Lê Thanh Vân vẫn chưa lành, cánh tay gần như không cử động được nên lại càng thêm phần cực khổ. Nhưng các anh em trong tù đã giúp đỡ, động viên và bảo vệ ông rất nhiều, giúp cho ông có thêm nghị lực và niềm tin để tiếp tục sống và chiến đấu với kẻ thù. Cơ sở Đảng trong tù được tổ chức, ông được anh em tin tưởng cử làm Bí thư của Đảng bộ Quảng - Đà (bao gồm những tù binh có quê ở Quảng Nam - Đà Nẵng), thường xuyên tổ chức những đợt sinh hoạt Đảng trong tù và đấu tranh với địch mỗi khi chúng đàn áp, hành hạ tù binh như: bắt đi đào hào công sự, rào thép gai, chào cờ địch hay bớt xén khẩu phần ăn, bắt bớ, đánh đập anh em…
 |
Ông Lê Thanh Vân và Ngô Trung Kiên (đồng đội cùng đấu tranh trong nhà lao Non Nước) vui mừng gặp nhau sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Ảnh tư liệu chụp năm 1975
|
Cuối năm 1971, chính ông là người đã dẫn dắt anh em tù binh làm nên một cuộc đấu tranh chưa từng có trong nhà lao Non Nước. Khi địch chuẩn bị cho cuộc hành quân Lam Sơn 719 (tháng 2-1971), Bộ chỉ huy của nhà lao đã đưa 300 tù binh, bao gồm cả thương binh từ khu A đưa lên khu Tân sinh hoạt nhốt chung với bọn chiêu hồi và giam giữ anh em phân tán trong bốn phòng. Kế sách chia rẽ của địch đã khiến cho thông tin liên lạc bị đứt đoạn và phong trào đấu tranh của các tù binh ở khu B trở nên rất khó khăn. Một hôm sau bữa ăn chiều, khi các tù binh đi rửa cà mèn cá nhân thì bọn chiêu hồi đến sinh sự và xảy ra xô xát. Một đồng chí ở chung phòng với ông đã đánh bị thương một tên chiêu hồi khiến bọn địch nổi điên. Chúng đóng cửa phòng và tuyên bố bỏ đói anh em cho đến khi các tù binh tự giác giao nộp tên “nổi loạn” cho quản ngục.
Cuộc đấu tranh kéo dài suốt 5 ngày, phòng có 80 tù binh, hầu hết tuổi đời còn trẻ nhưng trải qua một thời gian khổ cực trong tù nên sức lực đã kiệt, nhiều người nằm không gượng dậy được nhưng vẫn kiên quyết không giao nộp đồng chí, đồng đội của mình vào tay kẻ thù.
Trong khi đó, ở bên ngoài phòng giam thì địch đi rêu rao với các tù binh phòng khác là anh em ở phòng này đã đầu hàng, chịu khai báo thành khẩn và đã được đưa đi khu khác… hòng hạ nhục và bỏ mặc tù binh cho đến chết. Đến ngày thứ 6, biết địch quyết bỏ mặc cả phòng đến chết, Lê Thanh Vân (lúc này là Bí thư Đảng bộ của 300 anh em tù binh bị chuyển từ khu A sang khu B) bàn bạc với một số anh em đang còn gắng gượng được để tìm phương thức đấu tranh với địch nhằm tìm đường sống. Khi tên Nhu, Giám thị trưởng vào phòng giam đếm số tù, y nhìn anh em nằm la liệt rồi cười khẩy và nói: “Chết hết rồi hay sao mà không thấy bay rục rịch nữa?”. Ông gắng sức đứng dậy, chắn ngay cửa ra vào và chỉ thẳng mặt tên giám thị nói: “Bọn tôi có chết thì ông cũng không còn đường sống!”. Tên Nhu lớn tiếng chửi: “Bay có giỏi thì cứ chết đi…”. Liền lúc đó, ông lấy ra con dao nhỏ dài chừng tấc rưỡi được chế tạo từ chiếc cà mèn cũ, vẫn thường dùng để cắt móng tay móng chân trong tù và tự mổ bụng mình ngay trước mặt tên giám thị. Dao quá cùn nhưng ý đã quyết, ông nghiến chặt hàm răng, một tay kéo căng da bụng, một tay ấn mạnh con dao… Máu vọt ra thành vòi, tên giám thị Nhu hoảng hốt giật lùi ra sau mấy bước thì có hai đồng chí khác tên là Tiến (quê Quảng Trị) và Nghĩa (quê ở Thừa Thiên - Huế) đứng chặn ngay phía sau và cắn lưỡi ngay trước mặt hắn. Quá hoảng sợ, tên Nhu đành phải gọi chỉ huy của nhà lao Non Nước xuống giải quyết trực tiếp. Lúc này, phần vì quá đau đớn và mất nhiều máu, phần vì đã kiệt lực vì đói từ nhiều ngày, cả ba người đã không đứng vững nữa. Đồng đội dìu họ nằm xuống rồi ngồi xếp hàng xung quanh để bảo vệ. Còn đồng chí Ngô Trung Kiên (quê ở Hòa Vang, Đà Nẵng) đảm nhận trách nhiệm đưa ra các yêu sách với địch. Trước tinh thần bất khuất kiên cường đó, bọn chỉ huy nhà lao đành phải xuống nước chấp nhận hết tất cả mọi yêu sách của anh em. Lê Thanh Vân và hai đồng chí Nghĩa, Tiến cũng được bọn chúng đưa vào nhà thương chạy chữa và cứu sống. Cuộc đấu tranh thành công nhưng ông đã lọt vào tầm lưu ý đặc biệt của Bộ chỉ huy trại giam. Có lần chúng vin vào lời khai của một tên chiêu hồi, kiếm cớ bắt ông đi đánh đập một trận thừa chết thiếu sống…
Đến tháng 5-1972, khi quân ta tiến vào giải phóng Quảng Trị, địch vô cùng hoảng sợ nên đã cho dời toàn bộ 800 tù binh của nhà lao Non Nước ra đảo Phú Quốc giam giữ. Mãi đến tháng 2-1973, địch tiến hành trao trả tù bình theo Hiệp định Pa-ri thì ông được trở về sát cánh cùng nhân dân, đồng đội tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cho đến ngày toàn thắng.
Bùi Thị Thanh Dung