 |
Bịn rịn lúc chia tay |
Ít ai biết giữa đại dương mênh mông xa cách đất liền lại có những khối nhà thép khổng lồ sừng sững bốn mùa dầm chân trong nước biển mặn. Đó là các Trạm Kinh tế-Khoa học kỹ thuật và dịch vụ (KHKT-DV) (thường gọi tắt là nhà lô, nhà chòi, hay nhà giàn) đóng trên thềm lục địa phía nam Tổ quốc. Đó là nơi chốt giữ của cán bộ, chiến sĩ Đoàn M71 Hải quân làm nhiệm vụ canh giữ biển khơi, bảo vệ bầu trời thềm lục địa...
Vài nét về “Khối nhà thép”
Trước yêu cầu bảo vệ vùng biển, vùng trời thềm lục địa Tổ quốc, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) giao cho Bộ Quốc phòng, Bộ tư lệnh Hải quân, Bộ tư lệnh Công binh thăm dò, khảo sát hình thành và đóng các nhà nổi trên các bãi đá san hô ngầm khu vực thềm lục địa lãnh hải nước ta, từ Bãi cạn Ba Kè (giáp quần đảo Trường Sa) đến Bãi cạn Cà Mau (biển Cà Mau tỉnh Minh Hải, nay là tỉnh Cà Mau-vùng tiếp giáp với biển Ma-lai-xi-a và Phi-líp-pin). Từ đó các trạm KHKT-DV ra đời. Với chức năng nhiệm vụ là canh giữ vùng biển vùng trời, làm chỗ dựa cho ngư dân ra khai thác đánh bắt hải sản, bảo vệ giàn khoan dầu khí.
Các khối nhà kết cấu bằng thép do Bộ tư lệnh Công binh xây dựng có sức bền lâu dài và chịu khắc nghiệt của thời tiết như gió to bão lớn cấp 10 cấp 11, nhà có chân cũng bằng thép cắm sâu xuống nền san hô. Nhà chia thành nhiều tầng, nhiều khối để sinh hoạt, học tập với diện tích sử dụng hàng trăm mét vuông một tầng. Mùa sóng bão, nhà rung lắc nhưng không chao đảo và không dễ gì đổ được. Theo qui định khi có bão to, hiện tượng nhà rung lắc mạnh là cán bộ, chiến sĩ toàn trạm được lệnh chuyển xuống tàu an toàn. Hiện nay trên vùng biển thềm lục địa có những ngôi nhà thép như thế tạo thành một vành đai đảo thép trên biển. Mỗi nhà như một “pháo đài” vững chắc, trên đó là những người lính trẻ ngày đêm quan sát phát hiện mục tiêu lạ “mời” ra khỏi vùng biển thuộc chủ quyền nước ta. Đó là cán bộ, chiến sĩ đơn vị DK1, Đoàn M71 Hải quân-những người mà anh em gọi nửa đùa nửa thật là “Bia chủ quyền sống” trên biển. Những “tấm bia” ấy không chỉ gồng mình với điều kiện khắc nghiệt, mà còn phải chịu đựng nỗi nhớ nhà, nhớ đất liền, nhất là vợ ốm con đau, mẹ già, cha héo. Đã có 6 cán bộ, chiến sĩ hy sinh anh dũng trong lúc chống chọi với sóng cuồng bão giật để bảo vệ nhà giàn. Không ít “bi kịch trái tim” nảy sinh từ những chuyến xa đất liền dằng dặc như thế. Nhiều người đã 40 tuổi vẫn “phòng không” và không ít người bị người yêu “chê” là xa nhà ế vợ. Vượt lên trên những trở ngại về thời gian, không gian và điều kiện sống thiếu thốn đủ bề, là tinh thần yêu biển đảo và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đối với những người có vợ con ở tận Hải Phòng, Hưng Yên thì ngoài thu xếp ổn thỏa việc gia đình, các anh còn nhường cho những chiến sĩ trẻ về bờ trước thời hạn để tìm người yêu và cưới vợ. Thiếu tá Hoàng Văn Quảng, năm nay đã ngoài bốn mươi mà vẫn chưa có người để thương để nhớ. Quảng tâm sự: “Không phải là kén chọn, nhưng thời gian làm nhiệm vụ ở biển liên tục, về đất liền chưa kịp tìm được người yêu đã phải đi thay cho đồng đội khác vào bờ”.
Từ bàn tay tạo dựng cuộc sống
Thời tiết ở thềm lục địa chia làm hai mùa rõ rệt: Mùa biển lặng từ tháng 3 đến tháng 10, mùa sóng bão từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau. Do đặc điểm khí hậu nên việc tăng gia rau xanh ở đây cũng theo mùa sóng. Nói về trồng rau xanh, Thiếu tá Đinh Công Trung, Chính trị viên ở trạm Phúc Nguyên cho biết: “Những ngày đầu trạm mới đóng, rau trồng vài bữa lại héo và chết. Anh em đã chế ra chiếc bồn bằng gỗ trồng rau trên đó, chủ yếu là rau dền cơm. Mùa này chúng tôi phải làm nhà cho rau ở, gió hướng nào che hướng đó. Từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau là mùa biển động sóng to, gió lớn tạt mạnh rau sẽ chết hết nếu không che chắn cẩn thận”.
Tôi còn nhớ rõ trong đợt đoàn cán bộ đi chúc Tết Mậu Tý, sóng to gió lớn tàu không thả được xuồng. Tàu và trạm chỉ cách nhau 20 mét mà những người đi chúc Tết và bộ đội ở nhà giàn không nắm được tay nhau. Tất cả hàng hóa, lương thực, thực phẩm quà Tết mang ra từ đất liền đều phải gói trong túi ni lông, cột chặt vào dây thừng và quăng xuống biển để bộ đội trên nhà giàn kéo lên. Sau khi vớt được hàng, người mặc áo phao nhảy xuống biển bám vào dây mồi và lần dây bơi vào nhà giàn.
Mặc dù những năm gần đây, cuộc sống đã có nhiều đổi thay nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân, nhưng không phải đã hết những khó khăn gian khổ. Những thiếu thốn ấy tưởng chừng như rất đời thường đơn giản, nhưng nó lại vô cùng quan trọng đối với người lính ở đây. Chỉ nước ngọt thôi đã là “hàng xa xỉ”. Nước ở đây còn hiếm hơn cả Trường Sa. Bởi ở Trường Sa, có nơi các chiến sĩ có thể đào giếng khơi dòng nước ngọt ngay từ lòng đảo, còn ở các nhà giàn, chủ yếu hứng nước ngọt từ mưa trời hoặc chở từ đất liền ra, vì thế quanh năm thiếu nước. Mùa này mỗi người được tắm hai lần/tuần. Có trạm qui định mỗi tuần một người chỉ được dùng 30 lít nước đong sẵn trong can nhựa cho cả tắm giặt, rửa mặt, đánh răng. Cuối tuần nhà bếp có nhiệm vụ đong nước cấp cho anh em. Nước thải dồn lại để tưới rau, miễn là không nhiễm xà phòng và nước mặn. Nhà giàn Tư Chính 5 bị nghiêng nên nước ít hơn các trạm khác. Quanh năm anh em kéo nước biển mặn để rửa bát, giặt giũ, nước ngọt chỉ tráng rửa sau cùng. Anh Trang Hải Âu Trạm trưởng Trạm Phúc Tần nói: “Tôi phát cho bộ đội 5 lít thì thu về 3 lít. Nhiều hôm anh em tập tình huống phòng không trên sân thượng trời nắng chang chang, ra mồ hôi nhễ nhại, không có nước tắm, người chua lè. Thế là chiều anh em lại hò nhau xuống biển tắm quanh chân trạm và bắt cua (cua biển bám vào chân đế nhà giàn). Còn khi sóng to không tắm nước biển được thì anh em “tắm gió”, ra gió kỳ ghét cứ bở ra như khoai lang”…
Khó khăn thiếu thốn là thế, song lớp lớp cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn DK1, Đoàn M71 Hải quân vẫn xung phong ra nơi này làm nhiệm vụ, và luôn đoàn kết, coi nhau như anh em trong một gia đình.
Bài, ảnh: Mai Thắng