Với cương vị Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội, Viện chủ Tùng Lâm Quán Sứ... lại là đại biểu Quốc hội đương nhiệm, thời gian rảnh rỗi của Hòa thượng Thích Thanh Tứ thật là hiếm hoi. Hơn hai giờ đồng hồ nghe cụ tâm sự về cuộc đời mình đã giúp chúng tôi hiểu thêm và kính phục tâm hồn của một người tu hành luôn hướng về những điều tốt đẹp nhất cho dân, cho nước...

Thoát tục không có nghĩa là “Mũ ni che tai”

- SK&NC:  Những năm 40 của thế kỉ 20, khi nước  nhà chìm trong nô lệ, có một chàng thanh niên trẻ tên thật là Trần Văn Long đã xuống tóc đi tu, nhưng vẫn hăng hái tham gia cách mạng. Xin cụ Hòa thượng kể lại về những năm tháng ấy?

Hòa thượng Thích Thanh Tứ: Tôi tên thật là Trần Văn Long, sinh năm 1923, người xã Song Mai, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Năm lên 3 tuổi, mẹ tôi qua đời. Bố tôi là một người mộ đạo. Trong những lần đi cùng cha ra chùa Nho Lâm lễ bái, sư bà Đàm Ân nhìn tôi và nói với cha rằng: “Cháu có duyên tu hành”. Thế là cha tôi đã gửi tôi vào cửa Phật từ năm lên 6 tuổi. Lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân, phong kiến đô hộ, đời sống nhân dân lầm than nên tôi đã ý thức được nỗi nhục của một người dân mất nước. Những năm 40, phát xít Nhật tràn vào nước ta gây nên nạn đói, cướp đi sinh mạng của hàng triệu đồng bào mình, nhà Phật chúng tôi hết sức đau xót. Vì vậy, khi cách mạng tổ chức phá kho thóc Nhật ở Đống Long (xã Hùng An, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên) chia cho dân nghèo, tôi đã hăng hái dẫn đầu. Cách mạng thành công, tôi tham gia Hội phật giáo cứu quốc tỉnh Hưng Yên; luôn sôi nổi, nhiệt tình với nhiều phong trào xã hội thời đó để chống lại giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm như lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch.

Thực dân Pháp bội ước, đất nước bước vào giai đoạn trường kì kháng chiến. Sẵn lòng yêu nước, lại được giác ngộ cách mạng, tôi nghĩ: “Nước mất thì nhà tu hành chúng tôi cũng không thể tĩnh tâm mà tu được”, vì vậy, tôi đã quyết định đi theo cách mạng. Được cách mạng phân công tham gia nhiều hoạt động, trong đó có huấn luyện lực lượng vũ trang của tỉnh Hưng Yên. Lực lượng này đã tổ chức được nhiều trận đánh phá tề, chống càn gây cho địch nhiều tổn thất.

Hòa thượng Thích Thanh Tứ với bạn tù Hỏa Lò (1930-1954). Ảnh tư liệu

Hoạt động bí mật trong lòng địch, được sự che chở, giúp đỡ của nhân dân, nhưng do bị chỉ điểm, nên tháng 10-1951, tôi đã bị địch bắt trong khi đang ẩn náu trong một căn hầm bí mật tại làng Kim Phương, huyện Phù Cừ. Tôi bị giặc đưa về giam ở Nha công an Bắc Việt (ngụy), chịu nhiều cực hình, tra tấn dã man. Cuối  cùng, địch đưa tôi về giam tại xà lim “căng-oong” Nhà tù Hỏa Lò-nơi có nhiều chiến sĩ cách mạng trung kiên của Đảng bị lưu đày. Đó là một trường học cách mạng mà tôi không bao giờ quên được…!

- Người ta thường nói “Đi tu là thoát tục, là quên hết sự đời”, nhưng với chú tiểu Trần Văn Long ngày ấy thì không dễ gì quên được “việc đời”. Liệu có sự mâu thuẫn hay không, thưa cụ?

- Truyền thống Phật giáo Việt Nam luôn luôn đồng hành với dân tộc. Nhìn lại lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, đã có nhiều vị sư có công lao đóng góp cho đất nước ở thời Đinh, Lê, Lý, Trần. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhiều nhà sư đã dùng chùa chiền làm nơi che giấu cán bộ; làm cơ sở kháng chiến; hoặc trực tiếp tham gia vào các phong trào phản đối chiến tranh xâm lược; thậm chí có nhà sư còn quyên sinh, biến mình thành ngọn đuốc để đấu tranh cho công lý… Ngày nay, từ khi thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phật giáo luôn đặt phương châm: “Đạo Pháp-Dân tộc-Chủ nghĩa xã hội” là kim chỉ nam cho hoạt động của Giáo hội.

Cần phải hiểu rằng “thoát tục” không có nghĩa là “mũ ni che tai”, phớt lờ mọi điều xảy ra trong cuộc sống. “Thoát tục” trong giáo lí nhà Phật tức là từ bỏ những dục vọng đời thường; từ bỏ thói “tham-sân-si” để hướng tới giáo lí nhà Phật và tuân theo những điều cấm kị của người tu hành.

Giáo lí của nhà Phật là cứu vớt chúng sinh khỏi lầm than, khổ cực, giác ngộ và giải thoát họ để hướng tới những điều tốt đẹp hơn. Vậy thì tham gia cách mạng, đánh đuổi ngoại xâm, giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ, đem lại cơm ăn, áo mặc cho nhân dân chính là cứu vớt chúng sinh khỏi bể khổ lầm than của ách nô lệ.

Quốc thái, Dân an là mong muốn của nhà Phật

- SK&NC: Thưa Hòa thượng, ngay cả bây giờ khi “Quốc thái, Dân an” thì “việc đời” với “việc đạo” cũng luôn gắn kết trong quan điểm của cụ. Bằng chứng là cụ vẫn đang hoạt động sôi nổi trên diễn đàn Quốc hội khóa XII, với tư cách là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Cụ nghĩ gì về điều đó?

- Hòa thượng Thích Thanh Tứ: Đất nước đã hòa bình, thống nhất, đời sống của người dân đã ngày một cải thiện, nâng cao, nhưng ở mỗi thời kì lại đặt ra những vấn đề cần phải giải quyết. Mục tiêu của thời kì này là làm sao xây dựng được một nước xã hội “Công bằng, dân chủ, văn minh”, đó cũng là kì vọng của nhà Phật để hướng tới một xã hội hưng thịnh, đời sống của nhân dân ngày một ấm no, chất lượng cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn. Tôi tham gia đại biểu Quốc hội cũng là để cùng với các đại biểu Quốc hội khác đóng góp cho Nhà nước nhằm hướng tới và xây dựng cho được một xã hội như thế.

- Theo dõi những phiên chất vấn của Quốc hội trên vô tuyến truyền hình, người xem thấy cụ Hòa thượng Thanh Tứ nét mặt luôn thể hiện sự điềm tĩnh, tập trung nghe... Nhưng ở đằng sau hội trường, có bao giờ cụ đấu tranh gay gắt với một vấn đề nào đó mà cụ thấy bức xúc?

- Đấu tranh gay gắt thì chưa bao giờ. Bản thân tôi thì không thấy cần phải “gay gắt” vì có rất nhiều hình thức để mình bày tỏ quan điểm. Song tôi tin rằng, với bản chất Nhà nước của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, những chủ trương, quyết sách đưa ra bàn thảo đều đã có sự cân nhắc, đặt lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc lên trên hết. Đại biểu Quốc hội phát biểu chỉ là ý kiến của mỗi cá nhân đóng góp cho đất nước. Dĩ nhiên, phải xem xét toàn cục, đánh giá nhiều chiều, cái nào đúng, có lợi thì làm…

- Là một đại biểu Quốc hội thuộc thành phần Phật giáo, Hòa thượng đã có những đóng góp cụ thể gì để nói lên tâm tư, nguyện vọng của Phật giáo, của bà con Phật tử cũng như tôn giáo nói chung với đất nước?

- Trước hết, mình là đại biểu Quốc hội, mình phải đại diện cho tâm tư, nguyện vọng của toàn thể nhân dân, trong đó có Phật giáo nói riêng và tôn giáo nói chung. Không phải mình là Phật giáo thì chỉ bảo vệ quyền lợi cho Phật giáo. Vả lại, như tôi đã nói, tôn chỉ của Phật giáo cũng đồng quan điểm với Nhà nước là mong muốn “Quốc thái, Dân an”, đời sống nhân dân ngày càng tốt đẹp hơn.

Bản thân tôi trụ trì tại chùa Quán Sứ, các phật tử đến lễ chùa, khi biết tôi là đại biểu Quốc hội cũng trình bày những bức xúc, bất công trong cuộc sống. Tôi cũng rất lắng nghe, những điều gì thấy chưa đúng, với tư cách là Hòa thượng tôi đã khuyên giải họ, những điều gì đúng, tôi đều hứa sẽ làm cầu nối, chuyển đơn thư của họ tới các cơ quan chức năng để xem xét, giải quyết.

- Nhà Phật có thuyết Nhân-Quả, nhưng thực tế, có những người hiền lành, tử tế lại phải chịu nhiều thiệt thòi... Hòa thượng nghĩ gì về điều đó?

- Thuyết Nhân-Quả cần phải hiểu theo cả về bề rộng và chiều sâu. Giàu sang, phú quý, có địa vị không có nghĩa là có một cái “Tâm” thanh thản, thoải mái. Đừng nhìn vẻ bề ngoài mà vội đánh giá họ là người sướng hay khổ… Dĩ nhiên, trong cuộc sống còn có những cái bất công là điều khó tránh khỏi. Nếu nói về quan điểm nhà Phật thì làm gì trong sạch với lương tâm mình, làm những điều chính nghĩa thì sau này sẽ nhận được quả “Phúc”. Quả “Phúc” ở đây có thể là đời mình, đời con mình, đời cháu mình…

Còn về phía Nhà nước thì vừa rồi Quốc hội cũng đã ban hành Luật bồi thường Nhà nước, những người thẳng thắn, dám đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, bị trù úm, bị oan sai, rồi Nhà nước sẽ xem xét để bồi thường cho họ. Đó  cũng là một biện pháp để xây dựng một xã hội công bằng-dân chủ-văn minh.

- Xin cảm ơn Hòa thượng!

Nguyễn Đình Cần (thực hiện)