QĐND - Khi đơn vị được tin con tàu 69 anh dũng đối đầu với tàu chiến của Mỹ trên vùng biển Tây Nam, đã có buổi lễ truy điệu dành cho anh và đồng đội. Lê Xuân Khảm, người chiến sĩ trẻ-người thợ máy 22 tuổi ấy đã mất tích cùng con tàu. Bằn bặt tin tức, đơn vị, gia đình, người thân đều chẳng còn chút hy vọng nào cho ngày trở về của anh. Nhưng không, một chiều mùa thu của hơn 10 năm sau trận đánh ấy, anh đột ngột trở về trong ngập tràn niềm vui và nước mắt...
Thầy giáo trẻ và lá đơn viết bằng máu
 |
Vợ chồng thầy giáo Lê Xuân Khảm trong căn nhà hạnh phúc tại Hải Phòng. |
Năm 1964, cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta bước vào giai đoạn gian khổ và quyết liệt. Lớp lớp thanh niên, không kể là nông dân, công chức, giáo viên, học sinh, hay bác sĩ, kỹ sư cùng nhau hăng hái xung phong lên đường vào Nam chiến đấu. Trong không khí sục sôi ấy, xếp lại những trang giáo án, tạm biệt mái trường Đại học Hàng hải mến thương, thầy giáo trẻ Lê Xuân Khảm đã tình nguyện vào chiến trường. Bằng lá đơn được viết bằng máu của chính mình, anh đã được về với những “con tàu không số” huyền thoại, tham gia vận chuyển vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam bằng đường Hồ Chí Minh trên biển Đông.
Trong chuyến đi thứ 3 của mình, cũng là chuyến đi định mệnh lần này, từ tàu 121, Lê Xuân Khảm được bổ sung về tàu số 69, làm nhiệm vụ đưa vũ khí vào Khu 9 (Cà Mau) trong vai trò thợ máy. Vị trí này là thay thế đồng chí Văn đang bị thương. Thật ngẫu nhiên Văn lại là một sinh viên cũ của anh ở trường Đại học Hàng hải. Tàu 69 được cải dạng là tàu nghiên cứu khoa học biển của nước ngoài, trên tàu được “trang bị các loại máy móc, thiết bị rất hiện đại” nhưng thực tế chỉ có một máy chính và một số dụng cụ hàng hải thô sơ như thước đo độ góc (xích-tăng), la bàn... Vượt qua mấy nghìn hải lý trong sóng gió của thời tiết xấu và tránh địch, tàu 69 đã vào đến bến an toàn. Khi giao hàng xong, tàu quay ra gần đến Côn Đảo thì bất ngờ bị địch phát hiện và tấn công. Trận đánh không cân sức giữa một bên là tàu chiến của Mỹ được trang bị lực lượng hùng hậu và vũ khí tối tân với một bên là “tàu không số” quân số ít, vũ khí thô sơ. Dù vậy cán bộ, chiến sĩ trên tàu vẫn bám trụ, chiến đấu rất kiên cường, sẵn sàng hy sinh cùng con tàu chứ nhất quyết không để tàu rơi vào tay địch.
Khoảng cách thời gian giữa hai trận đánh là những phút giây tĩnh lặng dài đến ghê người. Giữa mênh mông sóng nước, trời, biển không còn ranh giới, trên là máy bay, dưới mặt biển thì tàu chiến địch bao vây cùng một bầu không khí căng thẳng đặc quánh mùi khói súng. Lúc sự sống và cái chết chỉ còn trong gang tấc, anh chợt da diết nhớ quê hương, cha mẹ và các em của mình... Nhớ cả Hải Phòng, quê hương thứ hai (Lê Xuân Khảm quê ở Thái Bình), nơi đó có bao bạn bè, học sinh, trường Đại học Hàng hải thân thương, và đặc biệt ở đó còn có người con gái anh yêu nhưng chưa kịp trao nhau nụ hôn đầu...
 |
Thầy giáo Lê Xuân Khảm thả vòng hoa viếng đồng đội tại cửa sông Vàm Lũng (Cà Mau). |
Sau mấy ngày đêm cầm cự quần nhau với địch, người bị thương thay thế vị trí người hy sinh, đến đêm 1-1-1967, tàu 69 chạy vào được cửa sông Vàm Lũng (Cà Mau) thì thoát khỏi vòng vây của địch. Anh em trên tàu hy sinh và mất tích gần hết, con tàu bị hư hỏng nặng, không đủ sức quay về Bắc được nữa. Lê Xuân Khảm cùng số chiến sĩ còn lại của tàu 69 gia nhập vào đơn vị quân giải phóng, tham gia chiến đấu trên chiến trường U Minh, giành nhau với địch từng tấc đất giữa rừng ngập mặn bạt ngàn muỗi, dĩn... Chiến tranh, điều kiện thông tin liên lạc đứt đoạn, khó khăn, chiến trường lại nằm giữa rừng tràm mênh mông cho nên anh Khảm “bặt vô âm tín” với đơn vị cũ và gia đình từ đó. Ai cũng tin rằng anh và đồng đội đã hy sinh cùng con tàu. Đơn vị cũ làm lễ truy điệu và gửi tư trang còn lại của anh về gia đình. Người cha già run run lần giở chiếc ba lô của con trai, nước mắt ông lặng lẽ rơi xuống chiếc áo bộ đội bạc màu. Ông cảm nhận được từ chiếc áo hơi ấm quen thuộc của đứa con trai thân yêu, nó đang thật gần mà cũng thật xa. Ông nghĩ, đơn vị đã gửi tư trang về cho gia đình, thế cũng có nghĩa là con trai của mình không bao giờ còn trở lại nữa. Cô sinh viên sư phạm cũng đã ra trường và trở thành cô giáo, sau nhiều năm khắc khoải chờ đợi mà vẫn bặt tin người yêu, cũng đành chôn chặt những kỷ niệm của mối tình đầu để đi tìm bến bờ hạnh phúc mới.
Nước mắt ngày trở về
Ngày 30-4-1975 lịch sử, dõi nhìn theo bóng những người con của xóm làng may mắn trở về từ chiến trường mà không thấy đứa con trai yêu quý của mình, lòng cha mẹ Lê Xuân Khảm thêm héo hắt. Thế rồi có ai ngờ, một buổi chiều cuối thu năm ấy anh đã trở về. Anh trở về sau 10 năm mất tích, trong nỗi mừng vui, sung sướng khôn xiết của người thân. Người mẹ già cứ sờ nắn những vết thương chằng chịt trên khuôn mặt, trên cơ thể của con trai mà khóc như chưa bao giờ được khóc, bởi lâu nay bà chỉ dám khóc và gọi tên anh trong những đêm mơ. Bà khóc rồi bà lại cười, bởi con trai bà đây, bằng xương bằng thịt, chững chạc trong bộ quân phục màu xanh. Người mẹ còn tự hào hơn nữa khi giờ đây con trai mình đã là thiếu tá, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Sông Hồng anh hùng. Hạnh phúc đã mỉm cười. Anh nên duyên với một cô giáo trường làng là bạn thân của cô em gái. Một đám cưới đơn sơ mà ngập tràn hạnh phúc được tổ chức nơi quê nhà, năm ấy chú rể tròn 40 tuổi. Sau ngày vui hạnh phúc, để lại người vợ trẻ nơi quê nhà, anh lên đường trở về đơn vị rồi tiếp tục sang chiến trường Cam-pu-chia làm nhiệm vụ quốc tế, với những trận đánh mới mà sự khốc liệt cũng không kém.
Từ Mê Công đến Phnôm Pênh toàn thắng
Đó là trận đánh quyết định, tấn công vào thành phố Phnôm Pênh đêm mồng 7 tháng giêng năm 1979. Sau nhiều ngày tấn công tại hướng chủ yếu Tây Ninh, Quân đoàn 4 của ta với sự yểm trợ của không quân, hải quân, thiết giáp, trong đó đặc biệt có sự góp sức của Tiểu đoàn Sông Hồng, do Tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Khảm chỉ huy đã đánh bật quân Khơ-me Đỏ khỏi các vị trí trọng yếu dọc theo tỉnh lộ 13. Sau khi đã làm chủ được sông Mê Công, thừa thắng, quân ta đánh thẳng vào giải phóng thủ đô Phnôm Pênh. Trong hồi ký của mình, Thượng tướng Hoàng Cầm nhận định: “Nếu không có sự hỗ trợ của Hải quân thì Quân đoàn 4 không thể tiến nhanh vào giải phóng Phnôm Pênh như thế...”. Nhận định của Thượng tướng Hoàng Cầm đã khẳng định vai trò to lớn của lực lượng Hải quân trong đó có sự góp công của Tiểu đoàn Sông Hồng với người chỉ huy Lê Xuân Khảm. Hoàn thành nghĩa vụ quốc tế, Tiểu đoàn Sông Hồng hành quân từ miền Tây Nam bộ ra miền Bắc để nhận nhiệm vụ mới tại Thủ đô Hà Nội.
Trải qua gần 20 năm lăn lộn khắp các chiến trường vào Nam ra Bắc, nhiều lần đối mặt với cái chết trong gang tấc, đã từng “được làm lễ truy điệu sống”, Tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Khảm lại trở về với mái trường Đại học Hàng hải thân yêu. Với nhiệm vụ là trợ lý hiệu trưởng, do sức khỏe không cho phép nên dù không trực tiếp đứng trên bục giảng nữa nhưng tấm lòng, tình thương yêu của người thầy, người chiến sĩ trong ông vẫn luôn hướng về học sinh.
Tôi gặp thầy giáo-Tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Khảm trong dịp ông cùng đồng đội trở lại thăm chiến trường xưa tại Đất mũi Cà Mau. Ông xúc động chỉ cho chúng tôi biết nơi con tàu 69 của ông nằm lại ngày ấy, cửa sông Vàm Lũng như một chứng tích vẫn còn đây mà bao đồng đội của ông giờ đang ở nơi nào...! Chúng tôi cùng thầy Khảm thắp nén hương thơm, thả nhành hoa tươi xuống khúc sông cửa biển để tưởng nhớ những người đã hiến dâng máu xương của mình cho nền độc lập của Tổ quốc. Tình yêu biển cả của ông mãi còn được thắp sáng bởi hai người con trai của ông-hai người thuyền trưởng của những con tàu lớn, hiện đại hôm nay đang ngày đêm bám biển giữ gìn và nối tiếp.
Bài và ảnh: Mai Thu Anh