Vào một ngày trung tuần tháng Giêng 2010, trong mưa phùn gió bấc se lạnh đầu xuân, chúng tôi ngược lên huyện Hương Khê (tỉnh Hà Tĩnh) đến với bản Rào Tre, nơi có đồng bào dân tộc Chứt đang sinh sống và tổ công tác đặc biệt của Bộ đội Biên phòng đồn 575 sống trong lòng dân bản.
Rào Tre và ký ức
Nếu anh không mặc bộ quân phục thì tôi không nghĩ người đàn ông dáng cao gầy, nước da đen sạm, gương mặt khắc khổ ngồi trước mặt mình là một sĩ quan biên phòng. Trong căn phòng nhỏ của trạm, Đại úy Nguyễn Trung Thiên say sưa kể về những kỷ niệm khó quên khi nhận nhiệm vụ cắm chốt tại Rào Tre.
Ngày ấy, những năm sau thập niên 70 của thế kỷ trước, kể từ khi phát hiện ra bộ tộc người Chứt sống hoang dã trong rừng sâu trên tuyến biên giới phía tây huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, đã có rất nhiều chủ trương của chính quyền triển khai kế hoạch nhằm bảo vệ và vận động để ổn định cuộc sống cho bộ tộc này, thế nhưng tất cả mọi kế hoạch đều thất bại. Đứng trước nguy cơ tồn vong của tộc người Chứt, năm 2001, Tỉnh ủy Hà Tĩnh quyết định giao cho Bộ đội Biên phòng thực hiện đề án xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội ở bản Rào Tre.
 |
Đại úy Nguyễn Trung Thiên (thứ hai từ trái sang) cùng với đội công tác làm cỏ lúa giúp đồng bào Chứt |
Ngay sau đó, Đội công tác do Trung tá Kiều Minh Đệ làm đội trưởng và các đồng chí: Trung úy Nguyễn Trung Thiên làm giáo viên, Trung úy, y sĩ Lê Văn Sơn, Thiếu úy Nguyễn Bá Sơn và Thượng úy Trần Đình Vũ được phân công bám trụ thực hiện “ba cùng” với dân ở bản Rào Tre. Các anh căng tăng mắc võng ngoài rừng để có điều kiện gần gũi, tiếp xúc với nhân dân. Lúc đầu bà con mặc cảm, lảng tránh bộ đội. Nhân dân mắc nhiều bệnh tật, nhất là bệnh sốt rét nhưng không đi điều trị mà chỉ dùng lá rừng, nếu không khỏi thì mời thầy thổi tới cúng, dẫn đến xảy ra nhiều trường hợp bị chết oan. Y sĩ của trạm đã đến từng nhà tuyên truyền vận động, trực tiếp khám bệnh, cấp thuốc chữa bệnh cho dân, thậm chí có trường hợp đẻ ngược, thầy cúng mãi không khỏi, Trạm tổ chức đưa đi bệnh viện cứu được cả hai mẹ con, đã mang lại lòng tin cho bà con.
Đại úy Nguyễn Văn Thiên kể: Khi đến từng hộ vận động bà con đi học thì bà con hỏi: Đi học có gạo ăn không? Đi học để làm gì? Thiên phải giải thích rất cụ thể, tỉ mỉ, ví dụ như đi học để biết chữ, biết cách làm ruộng, nuôi con gà, con lợn. Không phải một sớm một chiều mà ròng rã suốt gần 11 năm đội công tác kiên trì bám trụ lo việc cho dân như lo việc của nhà mình vậy. Nhiều việc, từng người trong đội công tác phải cầm tay hướng dẫn cho dân. Có những việc phải làm đi, làm lại nhiều lần, nhiều ngày thì dân mới hiểu và làm theo. Bởi thế mà bà con dân tộc Chứt ở bản Rào Tre coi đội công tác như người thân, quen từng dáng người, tiếng nói, bước đi. Một ngày không gặp, không trò chuyện với bộ đội là thấy nhớ. Niềm tin của bà con dân tộc Chứt đối với Bộ đội Biên phòng là yếu tố quyết định thành công để xây dựng bản Rào Tre.
Điều kỳ diệu là cán bộ trong đội công tác bám trụ nhiều năm và hiện nay vẫn còn tiếp tục ở lại đã trở thành người dân của bản, trở thành “lão nông”. Hiện nay, Rào Tre, nhà đã được ngói hóa, cái đói đã lùi vào dĩ vãng. Lúc đầu chỉ có 14 hộ với 48 nhân khẩu thì hiện nay lên tới 25 hộ với 131 nhân khẩu. Cùng với việc xóa mù chữ cho nhân dân, đội công tác đã vận động 28 em đi học bán trú để sau này trở về xây dựng bản làng. 100% gia đình có vườn rau, vườn cây ăn quả. Các hộ đều được chia ruộng. Từ chỗ không làm ra hạt gạo thì hiện nay bình quân lương thực là 18 kg thóc/tháng.
Trước đây “đói không lo, no không mừng” vì mỗi khi thiếu ăn Nhà nước lại tài trợ nên bà con không phải lo lắng, không chí thú làm ăn. Tệ nạn uống rượu trở thành thói quen, hễ có gạo là đưa đi đổi rượu, thậm chí có gia đình đưa cả bò được Nhà nước đầu tư đổi lấy rượu. Bây giờ bà con đã hiểu được mồ hôi, công sức đổ ra trên đồng ruộng, nên đã biết quý trọng hạt thóc. Từ 7 con trâu do Nhà nước cấp, bây giờ cả bản đã có 25 con trâu. Trước đây, bà con không nuôi lợn thì bây giờ mỗi hộ đã có một con lợn.
Năm 2003, thực hiện ngói hóa nhà ở cho bản Rào Tre, cán bộ, chiến sĩ hưởng ứng đóng góp từ 2 đến 3 ngày lương. Sau hai tháng tập trung thi công xây dựng nhà ở cho bà con ở Rào Tre, cán bộ, chiến sĩ đã đóng góp gần 2.000 ngày công khai thác, tận dụng 27m3 gỗ, 356m3 đá, vận chuyển 50 vạn viên ngói, 147 tấn xi măng; làm mới 4 nhà, tu sửa 19 nhà, xây dựng 1,4km đường bê tông trong bản với tổng giá trị 250 triệu đồng.
Đặc biệt, sau gần 5 năm thực hiện đề án đội công tác đã xây dựng được tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân và thành lập tiểu đội dân quân. Bản Rào Tre đã có đảng viên là trưởng bản. Đầu năm 2006, bản đã thành lập được chi bộ Đảng. Hiện giờ bà con đã thỏa lòng mong ước khi chiếc cầu bắc qua sông Ngàn Sâu đã tạo điều kiện giao lưu hàng hóa, đi lại thuận lợi.
Tâm tình người thầy giáo quân hàm xanh
Đại úy Thiên tâm sự, có lẽ anh có duyên nợ với bản Rào Tre nên không xa được. Quê ở Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh, học hết phổ thông, Thiên nhập ngũ vào Bộ đội Biên phòng Hà Tĩnh, hết nghĩa vụ, lại thi tiếp vào Trường trung cấp Biên phòng rồi trở về Biên phòng Hà Tĩnh làm công tác vận động quần chúng. Khi Bộ chỉ huy Biên phòng tỉnh lập tổ công tác đặc biệt lên bản Rào Tre xã Hương Liên, huyện Hương Khê, Trung Thiên trở thành một chiến sĩ của tổ công tác và bám trụ lâu dài nhất ở đây. Cũng phải nói một chút về bản Rào Tre và tộc người Chứt ở đây. Người Chứt vốn có tập quán du canh, du cư nên mỗi khi đến nơi ở mới, họ dựng lều lợp mái bằng lá tươi, khi mái lá chuyển màu úa vàng thì họ chuyển đi nơi khác.
Lúc mới về định cư, cả bản sống tách biệt hoàn toàn với đời sống hiện đại: Dân không biết chữ; cuộc sống hoàn toàn phụ thuộc vào săn bắt hái lượm, không biết trồng cấy, bắt được con gì họ cũng chỉ biết một cách là nướng lên ăn, uống nước lã; ngày ngủ, đêm thức đi săn, nhưng từ người lớn tới trẻ con đều nghiện rượu, thuốc lá; ăn ở mất vệ sinh nên hầu như ai cũng có bệnh đường tiêu hóa, sốt rét...
Ngôn ngữ bất đồng, người dân lại quen sống với những hủ tục khiến công việc của anh em càng vất vả. Phải lo cho người dân có cái ăn trước tiên. Vậy là tổ công tác tổ chức vận động bà con tham gia sản xuất, cải tạo ruộng để cấy lúa. Nhưng dạy cày cuốc, trồng cấy không khó bằng dạy chữ. Ban ngày cày cuốc, tối đến, các cán bộ biên phòng mở lớp xóa mù chữ ngay tại bản cho người lớn. Ban đầu mọi người rất hăm hở, nhưng được vài buổi thì bỏ dần vì khó quá. Để thu hút họ đi học, anh em nghĩ ra cách lồng ghép các buổi học chữ với dạy hát bởi người Chứt rất thích văn nghệ. Gọi là xóa nạn mù chữ nhưng không theo bất cứ một giáo trình nào, vì thế mỗi buổi học, thầy giáo Thiên chỉ dạy... một chữ cái và có chữ phải học suốt một tuần người ta mới nhớ. Mất gần ba tháng cật lực, các học sinh đặc biệt ấy cũng nhớ được hết bảng chữ cái.
Cùng với dạy chữ, anh em còn phải tuyên truyền người dân biết cách sống vệ sinh, ăn chín, uống sôi, ốm đau phải uống thuốc. Cuộc sống săn bắt hái lượm khiến người Chứt có thói quen chỉ ăn sống, hoặc nướng và toàn uống nước lã, còn mỗi khi ốm đau chỉ mời thầy cúng về làm lễ đuổi ma; phụ nữ khi sinh đẻ sẽ được người nhà làm cho túp lều bên bờ suối; với phụ nữ cũng không biết cách vệ sinh cá nhân, mỗi khi “đến tháng” người ta lại đốt một đống lửa giữa nhà, lấy tro ra rồi chặt một tàu lá cọ đặt lên trên đống tro ấy và cứ ngồi đó bao giờ hết thì thôi chứ không hề tắm giặt..., vì thế hầu như ai cũng mắc bệnh phụ khoa...
Anh Thiên kể rằng đã lâu lắm rồi nhưng anh vẫn không quên được cái đêm ấy, mặc trời mưa tầm tã, mấy anh em quàng áo mưa thay nhau cáng người phụ nữ đang trong cơn đau đẻ rên la vượt rừng. Khi ra đến bệnh viện huyện, các bác sĩ phải cho vào mổ cấp cứu mới cứu được hai mẹ con. Đứa trẻ sinh ra trong cái đêm “lịch sử” ấy giờ đã 7 tuổi và được đặt tên là Hồ Thị Định Lài, đang đi học lớp một ở Trường dân tộc nội trú.
Vụ mùa đầu tiên người Rào Tre làm theo Bộ đội Biên phòng thu được gần 10 tấn thóc; bộ đội dạy họ cách xay giã để ra gạo. Những ngày đầu, buổi tối bộ đội phải hướng dẫn cách nấu gạo thành cơm. Lần đầu tiên có nhiều gạo, có nhà đổ cả mấy chục cân gạo vào nồi nấu dở sống dở chín, ăn không hết cứ để cho mốc xanh lên rồi đổ đi. Vậy là anh em Biên phòng lại phải đến từng nhà dạy chia gạo ra từng bữa để nấu ăn dần...
Ròng rã hơn một năm “cầm tay chỉ việc” như vậy, người Chứt bản Rào Tre đã bỏ được hết hủ tục. Cùng với ổn định đời sống, cùng với tỉnh, Bộ đội Biên phòng Hà Tĩnh đã đầu tư sửa chữa lại toàn bộ hơn 20 căn nhà cho đồng bào, làm đường giao thông, xây trường tiểu học, trạm y tế, kéo điện lưới về bản. Trưởng bản Hồ Kính, một trong những đảng viên đầu tiên ở Rào Tre bảo rằng: “Trước kia, dân mình hay uống rượu, có người say nằm 3-4 ngày mới dậy. Từ ngày có bác Việt, bác Đệ, thầy Sơn, thầy Thiên và các chú Bộ đội Biên phòng về giúp, ốm đau cho thuốc, dạy trồng lúa nước, nuôi lợn gà nên đời sống đã thay đổi rất nhiều. Từ chỗ không biết làm ra hạt gạo từ ruộng nước thì hiện nay hằng năm bản Rào Tre có ruộng lúa nước hai vụ, nhiều nhà nuôi thêm được lợn, gà; điện, nước đã về tận bản, nhiều hộ có ti-vi xem. Giờ đây tất cả bản các gia đình có vườn rau, vườn cây ăn quả".
Thoáng cái đã gần 11 năm anh Thiên gắn bó với Rào Tre. Vợ con ở Cẩm Xuyên, chỉ cách Rào Tre hơn trăm cây số, nhưng khi vào mùa hay mưa lũ có khi mấy tháng anh mới về nhà được một lần tới mức mỗi lần về, đứa con nhỏ nhìn bố như người lạ, khi bố con quen nhau thì bố lại khoác ba lô đi. Nhưng với bà con bản Rào Tre, giờ đây anh đã thân thiết như người nhà rồi.
Đi đôi với việc phát triển kinh tế, đội công tác Bộ đội Biên phòng tích cực vận động các cháu đến trường, hiện có 36 cháu học trường nội trú huyện, một cháu học cao đẳng, hai cháu được cử tuyển vào Đại học Biên phòng.
Các ông Hồ Sơn, Hồ Kính, Hồ Nam gặp chúng tôi đều phấn khởi, nói: “Nhân dân thực sự coi Bộ đội Biên phòng đồn 575 là chỗ dựa vững chắc. Bộ đội Biên phòng coi đồng bào là anh em ruột thịt”.
Người lính quân hàm xanh là tên gọi trìu mến của đồng bào dân tộc Chứt ở hai bản Rào Tre dành cho Bộ đội Biên phòng đồn 575-Hà Tĩnh. Hình ảnh cao đẹp đó đã gắn bó với đời sống đồng bào dân tộc Chứt ở đây trong lịch sử phát triển bản Rào Tre. Chia tay Thiên khi anh đang chuẩn bị buổi cơm chiều đơn sơ tại trạm Biên phòng Rào Tre, tôi chợt nhớ tới câu: “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em” và nhận ra rằng, với những người lính như Thiên, đó không còn là khẩu hiệu mà đã trở thành ý thức trách nhiệm của một người lính Biên phòng.
Rời bản Rào Tre khi đã nhọ mặt người, chúng tôi vẫn nhìn thấy hình ảnh người lính quân hàm xanh vẫn đang hướng dẫn bà con tăng gia sản xuất, xây dựng cuộc sống mới và cùng bà con bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới.
Bài và ảnh: ĐÌNH HIẾU-HỒNG HẠNH