 |
Đồng chí Đoàn Khuê (bên trái) và tác giả năm 1988.
|
Mới gặp anh người ta có cảm giác rất khó gần, nhưng càng cùng nhau làm việc, thì mới hiểu đúng anh. Một con người được hun đúc trên mảnh đất giàu truyền thống cách mạng, phải vươn lên để tồn tại trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt cũng như với kẻ thù hung bạo nhất của thời đại.
Cùng quê hương Khu 4, tuy có nghe và biết về anh, nhưng mãi đến thập niên 1980, khi anh là Tư lệnh Quân khu 5, tôi là Tư lệnh Quân đoàn 3 chúng tôi mới có điều kiện cùng công tác, học tập, làm việc với nhau, tôi mới hiểu thêm về anh. Nếu ai chưa từng sống và cùng công tác thì rất dễ cảm nhận ở anh một cái gì đó lạnh lùng, ít cởi mở và khó gần. Lúc đầu tôi cũng cảm nhận như vậy, nhất là quá trình công tác, nhiều lúc có những ý kiến khác nhau, từ tranh luận đến tranh cãi khá gay gắt. Có lần tôi đã thẳng thắn nói với anh rằng: “Chắc anh không thích tính tôi, nhưng anh vẫn phải sử dụng tôi và tôi cũng không thích cá tính và thái độ có phần lạnh lùng của anh, nhưng tôi vẫn ủng hộ anh trên những chủ trương công tác”. Lúc này anh đã là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, tôi là Tư lệnh Quân khu 4. Anh cười và nói: “Cậu chưa hiểu hết mình thôi, thời gian cùng công tác chúng ta sẽ hiểu nhau thêm”. Và cái điều anh nói ngày càng được thể hiện trong bàn luận công việc cũng như trong hoạt động thực tiễn, phản ánh được cái bản chất bên trong của anh.
Trước hết, tôi thấy anh là một con người “rất Quảng Trị”. Mảnh đất khô cằn sỏi cát bắc miền Trung đã hun đúc ở anh một tính cách trầm lặng sâu kín, khô khan khắc khổ bên ngoài, nhưng lại đầy nội tâm sôi động, kiên cường bên trong. Anh là một điển hình tiêu biểu của con người trên mảnh đất khắc nghiệt vừa phải chống chọi với thiên nhiên để tồn tại, vừa phải chiến đấu với mọi thủ đoạn hung bạo nhất của kẻ thù xâm lược qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đồng thời nó cũng phản ánh một hoàn cảnh riêng khá đặc biệt của gia đình anh, một gia đình có hai Bà mẹ Việt Nam anh hùng với 5 người con liệt sĩ. Ở trong anh, vinh quang và đau thương mất mát trộn lẫn với nhau. Những lần cùng đi thăm các Bà mẹ Việt Nam anh hùng ở Nghệ An và Hà Tĩnh, tôi càng thấy rõ sự xúc cảm của anh, xúc cảm của một đồng chí lãnh đạo, của một con người cùng hoàn cảnh. Anh chuyện trò, tâm tình với các Bà mẹ Việt Nam anh hùng như với người thân của mình, để lại dấu ấn tốt đẹp với bà con và lãnh đạo địa phương…
Trong công việc, tuy ở cương vị lãnh đạo của Đảng và Quân đội, nhưng anh không có vẻ là nhà lí luận cao siêu. Qua công tác bộc lộ ở anh tính thực tiễn nhiều hơn, một cái thực tiễn phản ánh tính lí luận khá sâu sắc. Lúc anh là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng với cương vị là Bộ Tham mưu của Bộ Chính trị về lĩnh vực quốc phòng-an ninh, anh đã có công trong việc hoạch định “chuyển hướng chiến lược” quốc phòng trong tình hình mới, tập trung xây dựng quốc phòng gắn với an ninh nhân dân, gắn quốc phòng-an ninh với kinh tế và đối ngoại. Một điểm nổi bật là việc chỉ đạo Quân khu 4 đột phá xây dựng “xã phường an toàn làm chủ-sẵn sàng chiến đấu” đầy sáng tạo đã mở ra một hướng mới cho toàn quốc, khẳng định vai trò cơ sở xã phường không chỉ trong quốc phòng-an ninh mà còn cả trên lĩnh vực kinh tế-xã hội, tạo nền tảng vững chắc của hệ thống chính trị ở cơ sở góp phần đưa đất nước phát triển! Trong xây dựng lực lượng vũ trang, huấn luyện quân đội, phương châm “huấn luyện hệ thống, cơ bản, thiết thực, vững chắc” cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị được rút ra từ thực tiễn xây dựng quân đội những năm sau hòa bình.
Tôi nhớ lần cùng sang học tại Học viện Vô-rô-xi-lốp (Liên Xô trước đây), thấy anh rất chăm chú ghi chép tài liệu, thậm chí có khi mang trộm về nhà để chép. Tôi hỏi anh ghi chép gì mà nhiều thế (tôi và một số đồng chí khác thì chỉ ghi qua loa những điều thấy cần thiết). Anh nói phải tìm hiểu nghiên cứu kỹ mới hiểu hết người ta, để tìm cái hay, cái phù hợp với mình mà áp dụng. Một buổi tập bàn về công tác tham mưu trong kế hoạch cơ động cấp Quân đoàn tấn công trên địa hình Việt Nam, tôi được đồng chí Thiếu tướng giáo viên (chưa qua chiến tranh thế giới lần thứ hai) gọi lên trình bày phương án của mình. Với kinh nghiệm tổ chức cơ động trong chiến dịch Tây Nguyên tháng 3-1975 mà tôi là Tham mưu trưởng chiến dịch và cơ động trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử 1975, cùng cuộc tiến công giải phóng Cam-pu-chia giúp bạn khỏi họa diệt chủng của bè lũ Pôn Pốt năm 1979, tôi trình bày phương án của mình. Vì hoàn toàn không phù hợp với phương án của giáo viên, đồng chí đó phê phán và phản bác phương án của tôi. Hai bên tranh cãi hết cả buổi học mà không ai chịu ai. Đồng chí giáo viên thì nói đây là phương án mẫu của quân đội Liên Xô, tôi thì khẳng định đây là thực tế được vận dụng từ thực tiễn Việt Nam. Buổi tranh luận càng về sau càng căng thẳng. Đồng chí Đoàn Khuê là bí thư chi bộ lớp ngồi ở dưới nhắn tôi (nói tiếng Việt giáo viên không hiểu): “Cãi làm gì, của người ta phù hợp với quân đội người ta, ai bắt mình theo mà phải cãi? Học để tìm cho mình một cách đánh phù hợp với tư tưởng quân sự, tình hình thực tế của mình”. Nghe anh nói vậy, máu nóng của tôi mới hạ nhiệt và tôi mới hiểu hết ý của anh là học, nghiên cứu sâu của người ta để chọn cho mình cái phù hợp nhất của “cách đánh Việt Nam”. Và từ đó càng thấy ở anh tính thực tiễn trong chỉ đạo khá sâu sắc.
 |
Thăm Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
|
Con người của anh là như thế. Mới gặp có cảm giác rất khó gần, nhưng càng cùng nhau làm việc, cùng bàn việc quân, việc Đảng thì mới hiểu đúng anh, mặt mạnh cũng như mặt nhược, một con người được hun đúc trên một mảnh đất giàu truyền thống cách mạng mà con người phải vươn lên để tồn tại trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt cũng như với kẻ thù hung bạo nhất của thời đại. Anh là người của công việc đầy tâm huyết. Những ngày cuối đời, trong những buổi họp ở Quốc hội cũng như khi anh lâm bệnh nặng tại bệnh viện, anh cũng thường nói lên những nhược điểm của mình, những suy nghĩ về Đảng, về đất nước, về quân đội và anh dặn tôi hết sức tập trung tâm huyết, trí tuệ để đóng góp cho Đảng, cho quân đội, làm sao cho đất nước ngày một giàu mạnh hơn. Sau đó vài hôm, anh vĩnh biệt chúng ta. Tôi càng nhớ thương anh, một con người lãnh đạo, một con người suốt đời gắn với hoạt động thực tiễn.
Đại tướng Đoàn Khuê sinh ngày 29-10-1923, tại thôn Gia Bằng, xã Triệu Tân, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị (nay là xã Triệu Lăng, Triệu Phong, Quảng Trị), mất ngày 16-1-1999 tại Hà Nội.
Đồng chí nhập ngũ tháng 9-1945, từng giữ các chức vụ: Chính ủy Sư đoàn 351, Phó Chính ủy Quân khu 4, Tư lệnh Quân khu 5, Phó tư lệnh rồi Tư lệnh Bộ tư lệnh 719, Trưởng ban lãnh đạo đoàn chuyên gia giúp bạn Cam-pu-chia, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Đại tướng Đoàn Khuê được bầu là Ủy viên Bộ Chính trị khóa 6, khóa 7, khóa 8.
Đồng chí được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng (truy tặng năm 2007), Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều huân, huy chương cao quý khác.
|
Trung tướng Nguyễn Quốc Thước