1. Cho đến hôm nay, rất nhiều cựu chiến binh còn nhắc đến chị Lê Thị Tài (sinh năm 1952) như một tấm gương đấu tranh bất khuất trong những ngày đối mặt với địch ở lao tù. Sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng ở Hoài Nhơn (tỉnh Bình Định). Được những người bác như ông Đào Duy Tồn, Đào Duy Hải giác ngộ cách mạng, nên mới 16 tuổi, chị đã tham gia hoạt động tại cơ sở cách mạng H5 (thị xã Kon Tum). Lúc đó, nhà bác chị có một lò gạch, rồi một quán tạp hoá nhỏ (ở phường Trường Chinh hiện nay). Chị Tài vừa làm gạch, vừa lấy lý do đi mua hàng về bán để nắm tin tức trong vùng địch, mua hàng tiếp tế cho cách mạng, rải truyền đơn…
 |
Bà Lê Thị Tài xem lại các kỉ vật thời chiến. |
Hoạt động được 2 năm, đến tháng 4-1970, do máy cày cày ruộng làm sập hầm (trong hầm lúc đó đang có bác Đào Duy Tồn làm việc) nên bị lộ, chị Lê Thị Tài cùng một số người trong gia đình (bác Đào Duy Hải, hai người chị) cũng bị bắt giam ở nhà lao Kon Tum, đến năm 1972 thì đưa đi nhà lao Gia Lai cho đến tháng 11-1974. Chị bảo, suốt 4 năm ở tù với những trận đòn roi là khoảng thời gian không bao giờ quên. Nhớ nhất là giữa tháng 3-1973, khi có 30 phạm nhân tù chính trị từ Côn Đảo đưa về để trao trả tù binh theo Hiệp định Pa-ri thì cai ngục càng siết chặt kỷ cương và đưa ra nhiều điều kiện vô lý. Trước mưu đồ bức hại tù nhân ngày càng điên cuồng và lộ liễu của kẻ thù, những người tù chính trị đã quyết định dùng biện pháp đấu tranh quyết liệt hơn đó là tự mổ bụng để địch thấy được khí phách của những người chiến sĩ cách mạng như anh Quang (Đà Nẵng), anh Hữu Báo (Phú Yên)… Chị Tài tâm sự: “Trải qua các nhà tù, tôi tận mắt chứng kiến cảnh tra tấn, đánh đập dã man của địch đối với tù chính trị. Trong cuộc đấu tranh ấy, chúng tôi luôn thắt chặt tình đoàn kết thể hiện ý chí đấu tranh kiên cường. Là một nữ tù, bị hành hạ đủ điều và nhiều khi bất tỉnh vì bị địch dùng roi điện tra khảo… song từ sự động viên của các đồng đội cũng như những tấm gương ngời sáng đã giúp tôi giữ vững khí tiết, bản lĩnh của người cách mạng vượt qua mọi khó khăn”.
2. Sinh ra ở thôn Bắc Thuận, xã Nhân Hậu, An Nhơn, Bình Định, chị Bùi Thị Tưởng được giác ngộ cách mạng từ tuổi còn nhỏ. Năm 9 tuổi (năm 1953), chị đã tham gia Đội thiếu niên nhi đồng của thôn; 10 tuổi, chị đã tham gia vót chông, đào hầm chông đề phòng Pháp đổ bộ cửa khẩu Đề Di tràn lên Quy Nhơn. Là gia đình cách mạng nên sau năm 1954 bị địch lùng bắt, cả gia đình phải dắt díu nhau lên Kon Tum. Năm 1965, chị trở thành giáo viên tiểu học ở Trung Tín. Đầu năm 1966, với bí danh Uyên Lý, chị được tổ chức giao nhiệm vụ xây dựng cơ sở, vận động binh lính theo cách mạng. Tranh thủ mọi điều kiện, chị có mặt ở khắp mọi nơi trong vùng địch để tuyên truyền, vận động phụ nữ và quần chúng tham gia vào việc vận chuyển vũ khí, bí mật che giấu lực lượng. Chị mở quán giải khát Cao Nguyên để thu thập tin tức, tình hình. Chị còn lân la làm thân với các sĩ quan ngụy để chúng cho xe chở thuốc, mắm muối… mà các cơ sở quyên góp được lên vùng Trung Tín cho cách mạng và lúc về vũ khí được giấu ở bên trong, bên ngoài ngụy trang bằng than. Suốt 2 năm trời, chị đã vận chuyển trót lọt không biết bao nhiêu chuyến hàng cho quân ta chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.
Chị Bùi Thị Tưởng đã 3 lần bị địch bắt, trải qua nhiều nhà tù từ Nhà lao Kon Tum, Nhà lao Gia Lai, Quân lao Nha Trang, Lao chợ Đầm Nha Trang, Trung tâm thẩm vấn Nha Trang… với đủ cực hình. Ba lần đi tù cũng là 3 lần chị phải ra toà. Lần thứ nhất là tham gia chiến dịch Mậu Thân, lần thứ hai để tang cho Bác ngay tại Quân lao Nha Trang, lần thứ ba (năm 1973) khi chị đi cứu thương. Chị kể: “Nhớ nhất là cuộc đấu tranh để tang trong tù ngày Bác Hồ mất. Đó là ngày 4-9-1969. Tên Thiếu tá Nguyễn Văn Bé, quản đốc Quân lao Nha Trang xuống phòng giam hỏi: “Đứa nào để tang cho Hồ Chí Minh thì sắp hàng ra đây”. Chúng tôi đồng loạt ra sân. Đã có sự phân công, tôi đứng lên trước nói: “Bác Hồ là vị lãnh tụ tối cao của dân tộc, cả thế giới đều kính trọng và tôn vinh, lẽ nào chúng tôi là người Việt Nam, là con cháu của Bác mà lại không để tang cho Bác khi Bác mất”. Hắn điên cuồng quát tháo: “Mấy bà có thấy mặt Hồ Chí Minh không?”. Tôi trả lời tiếp: “Vậy chớ Đức chúa Giê-su, Đức Phật Thích Ca có mấy ai thấy mặt, có ai biết rõ về các ngài mà cả thế giới vẫn khắc tượng tôn thờ?”. Không lí lẽ được, bọn chúng đánh đập chúng tôi dã man, đặc biệt là 5 chị em cầm đầu”.
Giải phóng, chị công tác ở Ủy ban quân quản thị xã, rồi chuyển sang công tác trong ngành Giáo dục.
Chu Loan