Vợ tôi ngồi trầm ngâm bên ngôi mộ của bố chồng, đôi mắt lung linh thường ngày bỗng chốc sững sờ xoáy sâu vào kỷ vật được tìm thấy ở ngôi mộ vừa được đào lên với dòng chữ cuộn tròn trong cái lọ thủy tinh nhỏ mang tên Phạm Thanh Hiệp. Cách đây mấy hôm, vợ tôi đã nằm mơ tìm thấy mộ bố tôi dưới một gốc cây to, cạnh hai tảng đá trắng trên vùng núi rừng phía Tây Nghệ An...

Trong làn khói hương nghi ngút và ảm đạm của một buổi chiều tà, tôi nhận ra, trong ánh mắt cô ấy có cả một vùng trời ký ức, sâu thẳm và mông lung như những tâm sự mà tôi từng kể.

Cầm điện thoại trên tay, tôi cũng rưng rưng nhớ lại những gì mình đã tâm sự cùng người vợ hiền: Sau giải phóng miền Nam năm 1975, cha từ chiến trường trở về, cùng mẹ tôi ngược lên miền núi xây dựng vùng kinh tế mới. Cái giây phút sung sướng, hạnh phúc và thiêng liêng nhất của cha mẹ phải chăng là khoảnh khắc được nghe thấy đứa con mình cất tiếng khóc chào đời; một thiên thần sống có linh hồn và diện mạo được kết tinh từ sự hoàn hảo, kỳ diệu của một tình yêu tuyệt đẹp.

Nhưng rồi niềm vui chưa được bao lâu, vết thương cũ của cha tái phát khiến cha đau ốm triền miên, rồi cha lâm bệnh qua đời khi tôi còn đang đỏ hỏn, mẹ đau đớn, gắng gượng nuôi tôi sống qua ngày. Với tôi, mẹ là hiện thân của một tình yêu vĩ đại, sự khoan dung, nhân hậu, độ lượng và chở che. Khi bố nằm xuống, mẹ ôm tôi vào lòng nuốt lệ nghẹn ngào, mẹ ngập chìm trong nỗi đau dài tuyệt vọng. Cha đã đi xa, mẹ chỉ còn tôi là chỗ dựa tinh thần, là động lực, niềm tin và sức mạnh để vượt qua biển khổ của cuộc đời. Rồi những đợt sóng ngầm chảy qua đa đoan đời mẹ, số phận khắc nghiệt đã làm cuộc đời mẹ đổi thay. Mẹ thương tôi như một chú chim non giữa biển đời đầy bão tố, lạc lõng và cô đơn. Thế rồi, chẳng bao lâu sau nỗi đau chồng chất nỗi đau khiến mẹ kiệt sức. Tôi được xóm làng thay nhau chăm sóc cho đến khi một người bác họ ở dưới xuôi đưa về nuôi. Tôi lớn lên trong vòng tay yêu thương của bác họ, một tuổi thơ với biết bao bộn bề gian khó.

Lớn lên rồi tôi thường hỏi cha, mẹ tôi đâu mà chưa kịp hiểu rằng đó là câu hỏi của định mệnh. Bác dạy tôi thế nào là đại dương, những số phận, những cảnh đời trần tục, dạy tôi hiểu thêm về một thế kỷ chiến tranh với những chuyến đò chở người ra đi không có ngày trở lại. Rằng, tôi lớn lên từ trong gian khổ, sẽ có một đôi cánh vững vàng vượt qua mọi bão giông.

Thời gian thấm thoắt trôi qua, khi tôi trở thành một sĩ quan quân đội cũng chính là lúc tôi bắt đầu cuộc hành trình đi tìm cha mình với biết bao thăng trầm, vất vả... có những lúc tưởng chừng như tuyệt vọng. Quyết tâm đi tìm cha ngày càng lớn dần lên, thôi thúc mạnh mẽ hơn bởi đó là ước nguyện, là khát vọng lớn nhất trong cuộc đời tôi. Tôi đã từng mơ ước có được một hậu phương vững chắc thay tôi thực hiện ước nguyện tìm được mộ cha đưa về xuôi hương khói.

Hơn 40 năm, tôi từ một cậu bé được ẵm trên tay đã trở thành một sĩ quan chững chạc. Hơn 40 năm lịch sử đã sang trang, từ chiến tranh lửa đạn đau thương đến hòa bình, phồn vinh và đổi mới.

Và cũng đã hơn 40 năm tôi không nguôi trong lòng nỗi khắc khoải, ngóng đợi, hy vọng một ngày cha tôi sẽ trở về... Tôi mơ thấy cha trở về với mái tóc đã bạc, chiếc áo cha mặc đã sờn, nhưng trong bộ quân phục trông cha thật oai phong. Cha cười rạng rỡ, giang tay đến bên tôi. Tôi ôm chặt cha vào lòng mà khóc nức nở rằng: “Cha ơi! Sao cha đi mãi chẳng về…!”. Cha cũng đã kịp nói với tôi, “Con hãy bước tiếp chặng đường mà cha còn dang dở”, rồi lặng lẽ quay đi để mặc tôi gào thét. Nét mặt cha buồn bã, bóng dáng cha như làn sương tan biến vào màn đêm tĩnh lặng. Tôi chạy theo, chạy mãi, tìm mãi cho đến khi giật mình tỉnh giấc...

Là một quân nhân, tôi không có nhiều thời gian dành cho gia đình, nhiều lúc chỉ kịp hỏi thăm sức khỏe của vợ con trong cuộc điện thoại vội vàng. Hôm nay bỗng nhận được cuộc điện thoại của vợ với lời nói xúc động: “Anh à, anh cứ yên tâm công tác nhé, em tìm được mộ của bố rồi anh ạ, em đang ở bên mộ và thắp hương cho bố đây!”. Tôi nghẹn ngào trong dòng nước mắt, thầm cảm ơn em – hậu phương lớn của anh! Nếu anh là người khởi nguồn cho cuộc hành trình đi tìm người cha quá cố, thì em là người đã giúp anh kết thúc cuộc hành trình kéo dài 20 năm qua.

Xin nghỉ phép, tôi về tới nhà thì vợ tôi đã cùng những người thân đưa cha tôi về xuôi an táng. Quỳ trước ngôi mộ khang trang của cha dâng nén hương mà tôi nghẹn ngào. Nhìn thấy vợ đang đứng bên cạnh, tôi quay sang ôm vợ mình rồi khóc nức nở.

Đêm nay, vợ chồng tôi lại thức trắng với câu chuyện hành trình đi tìm mộ cha: Sau giấc mơ, vợ tôi lên đường tìm đến vùng đất thiêng ấy. Không dám nói với tôi vì sợ tôi lo lắng mà ảnh hưởng đến công việc ở đơn vị. Vậy là vợ tôi cùng vài người thân lần theo sự hồi tưởng trong giấc mơ đi về phía Tây Nghệ An. Dọc hai bên đường đất nhầy nhụa, những ngôi nhà lụp xụp nằm rải rác bên sườn đồi, vài đứa trẻ đen nhẻm, thập thò với ánh mắt lạ lẫm. Thật may mắn, lần mò tìm hỏi thì gặp được ông cụ - chính là người ngày xưa đã trực tiếp mai táng cha tôi. Ông chỉ cho vợ tôi khu rừng rậm um tùm cây cối. Nhờ anh em đào tìm và được sự giúp đỡ của người dân địa phương dẫn lối nhưng vùng đất rộng lớn bằng phẳng, rất khó xác định đâu là ngôi mộ. Trời mưa lâm thâm và hai đêm thức trắng khiến vợ tôi ngất xỉu. Mọi người lấy lá cây hơ nóng trên ngọn lửa, chườm cho vợ tôi tỉnh lại. Vừa mở mắt vợ tôi nhìn thấy cái gốc cây to và hai tảng đá trắng và nói với chị tôi rằng: “Có lẽ bố nằm chỗ này chị ạ!”. Khi đào thấy cái lọ nhỏ bật lên, mọi người bàng hoàng sửng sốt vì đó là cái lọ mà hôm qua ông cụ trong bản mô tả kỷ vật kèm theo khi chính ông mai táng. Chị gái và vợ tôi ôm nhau òa khóc... Trải qua mấy chục năm mà xương cốt cha tôi chưa tan, đặc biệt những kỷ vật chôn theo vẫn còn nguyên vẹn.

Tiếng chuông đồng hồ đã vang lên, lúc này là 5 giờ sáng, bình minh đang lên, những sợi nắng vàng vương dài trên vai áo, một làn gió mát dịu khẽ lướt qua làm mái tóc vợ nhẹ bay. Nhìn ngọn đèn le lói trên bàn thờ cha, tôi cảm thấy yên lòng khi có được hậu phương vững chắc đã thay tôi hương khói. Tôi tạm biệt vợ, con rồi vội vàng trở lại đơn vị bởi nhiệm vụ của người lính bộn bề không cho phép chậm trễ.

PHẠM THANH TRÂM