Liệt sĩ Trần Thị Bắc. Ảnh chụp lại

Trần Thị Bắc sinh năm 1932, tại thôn Xuân Dục Đoài, xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội là nhân vật thực ngoài đời trong bài thơ “Núi đôi” của Vũ Cao.

Sinh trưởng trong một gia đình có bố làm Xã đội phó, cậu là Xã đội trưởng, các chú, các bác đều là bộ đội, cán bộ Việt Minh, nhất là được tận mắt chứng kiến bao cảnh càn quét, cướp bóc, đốt phá, bắn giết hết sức dã man của bọn lính Pháp và ngụy quân ngay tại quê mình, nên Trần Thị Bắc đã sớm giác ngộ cách mạng. Năm 1947, mới 15 tuổi, chị đã rất tích cực tham gia hoạt động trong các phong trào đoàn thể.

Cuối năm 1949, chị xin gia nhập đội du kích, làm nhiệm vụ giao thông liên lạc, tiếp tế và trực tiếp chống càn, bảo vệ nhân dân trong lúc đi tản cư. Sau đó chị được cử ra vùng tự do theo học lớp y tá. Cũng trong thời gian này, Trần Thị Bắc gặp anh bộ đội tên là Trịnh Khanh, thuộc đại đội Trần Văn Tuấn (là nhân vật: “Anh đi bộ đội sao trên mũ…” trong bài thơ “Núi Đôi” của Vũ Cao). Sau vài lần gặp gỡ, cả hai mới biết rằng họ là người cùng xã. Chàng trai ở thôn Vệ Linh, dưới chân núi Sóc, còn cô gái ở thôn Xuân Dục Đoài, dưới chân núi Đôi. Tình yêu quê hương, đất nước và lòng căm thù giặc sâu sắc đã giúp họ cùng chung một chí hướng, vượt khó khăn thử thách để hoàn thành nhiệm vụ mà đơn vị và đoàn thể giao cho.

Cụ Nguyễn Thị Thân, 89 tuổi, là thím ruột của Trần Thị Bắc, hiện còn sống tại thôn Xuân Dục Đoài kể lại:

“Bắc là con gái cả trong gia đình, nên sớm biết lo toan công việc, giúp đỡ bố mẹ. Cháu vừa nhanh nhẹn, tháo vát lại đẹp người, đẹp nết, nên đi đâu và làm việc gì cũng đều trót lọt. Có một lần bà Nguyễn Thị Tèo (mẹ của Bắc) bỗng dưng thấy cháu sắm đôi quang thúng mới, bà hỏi: “Con sắm quang thúng để làm gì?”. Bắc hồn nhiên nói với mẹ: “Con tập đi buôn đấy mẹ ạ!”. Ai ngờ chính đôi quang thúng đi buôn ấy, vừa là để che mắt kẻ địch, cũng là nơi cất giấu tài liệu của cô du kích”.

Từ năm 1951, người ta thường thấy ở thôn Đoài có một cô gái hòa lẫn vào trong dòng người đi buôn bán ở khắp mọi nơi. Với đôi quang thúng trên vai, chị đi khắp các hang cùng ngõ hẻm. Những lần mua, bán hàng ấy, chính là lúc chị dò la, thu thập tình hình một cách có hiệu quả nhất để chuyển những tin tức quan trọng ra vùng tự do. Bọn lính Tây và lính ngụy trong vùng đều quá quen thuộc chị, nên không hề có chút nghi ngờ, chúng còn kháo nhau: “Một ngày mà không nhìn thấy cô em Bắc xinh đẹp một lần, thì cả lính Tây cho chí lính ta (ngụy) đều buồn tẻ”. Trước sự mất cảnh giác đó của kẻ thù, Trần Thị Bắc lại càng tỏ ra thông minh, lanh lợi và khôn khéo. Những khi không đi buôn bán, lại thấy chị cầm liềm, quẩy đôi quang gánh lên tận đỉnh núi Đôi để cắt cỏ và không có đồn, bốt nào của địch mà chị lại không biết. Với hình thức hoạt động bán công khai ấy, không những bọn địch không nghi ngờ, mà chúng còn rất quý mến chị. Có những tên chỉ huy, khi vào làng càn quét, đã tìm đến thăm nhà Trần Thị Bắc và có ý ngỏ lời muốn lấy chị làm vợ bé. Lợi dụng tình thế ấy, Trần Thị Bắc đã linh hoạt, chuyển ngay sang hình thức làm công tác binh, địch vận đối với những tên này. Bằng những lời lẽ đầy thuyết phục, chị đã thành công trong việc vận động một người cai trong hàng ngũ lính ngụy và một lính Pháp tự động mang súng ra đầu hàng cách mạng. Nhờ có những thông tin rất quan trọng do chị cung cấp nên một số cơ sở của ta không bị lộ. Đặc biệt là tránh được những tổn thất to lớn đối với số cán bộ đang hoạt động ở trong vùng địch hậu.

Đồn bốt của thực dân Pháp trên đỉnh Núi Đôi.

Đầu năm 1954, thực dân Pháp tăng cường quân lên Điện Biên Phủ, đồng thời đánh phá quyết liệt, nhằm ngăn chặn sự chi viện của ta cho chiến trường. Để trấn an tinh thần bọn lính Pháp và ngụy quân ở phía sau, chúng ráo riết tổ chức các cuộc vây bắt, lùng sục ở khắp mọi nơi. Vào thời điểm này, Trần Thị Bắc cùng một lúc nhận được hai quyết định của trên, một là về tỉnh để tiếp tục học lớp y tá, hai là về làm công tác quân báo tại huyện đội Đa Phúc (nay là Sóc Sơn), với lý do đã bị lộ, nên trên có ý định chuyển vị trí công tác của chị.

Ông Lê Văn Túc, 77 tuổi, cán bộ lão thành cách mạng thôn Xuân Dục Đoài, tổ trưởng quân báo của huyện lúc đó, kể lại trận chiến đấu cuối cùng của nữ du kích Trần Thị Bắc:

“Hôm đó là ngày 16-3-1954, vào lúc 10 giờ đêm, sau khi đã bố trí xong lực lượng, chuẩn bị cho trận mai phục quân địch ở khu vực chùa Táo, Trần Thị Bắc nhận nhiệm vụ đưa đoàn cán bộ khoảng 30 người, từ vùng địch hậu Lương Châu ra vành đai trắng Phù Linh. Cô đi trước thăm dò, khi đến chân núi Đôi, không may rơi vào ổ phục kích của địch. Chúng bắt cô và bịt miệng cô lại, với ý định sẽ phục chờ và bắt nốt số người đi sau. Biết được âm mưu của địch, Bắc đã chống cự quyết liệt. Cô lao vào tên quan Pháp, túm ngay vào chỗ hiểm, dùng hết sức mình bóp chặt lấy bộ hạ của hắn. Bất ngờ bị đòn đau, tên quan Pháp kêu rống lên như con bò bị chọc tiết. Một tên lính lê dương đứng cạnh đó vội lôi Bắc ra và dùng súng xả trọn một băng vào ngực cô.

Thấy động, đoàn cán bộ của ta đã rút lui an toàn. Còn Trần Thị Bắc đã anh dũng hy sinh, máu chảy loang đỏ trên vầng ngực tròn, căng của cô. Những viên đạn tàn ác của kẻ thù vẫn còn găm nguyên ở đó. Quân địch trên núi Đôi đã dùng súng moóc-chi-ê bắn vòng quanh xác cô. Bất chấp nguy hiểm, anh em trong đội du kích đã vượt qua lửa đạn vào đưa thi thể của Trần Thị Bắc tới nơi Cầu Cốn, Vệ Sơn để làm lễ truy điệu và mai táng cô tại đó với lòng tiếc thương vô hạn của đồng chí, đồng đội và bà con xã Phù Linh”.

Liệt sĩ Trần Thị Bắc, dòng tên em đã khắc vào vách núi còn vang vọng và tỏa sáng về một tấm gương của người con gái núi Đôi, mãi sẽ là niềm tự hào của người dân huyện Sóc Sơn, của Thủ đô anh hùng”.

Bài và ảnh: VĂN HỌC