Đến thăm nhà Trung tá CCB Nguyễn Đức Hiền, 83 tuổi, ở số nhà 454/20 Nguyễn Tri Phương, Đà Nẵng, tôi bắt gặp ông đang soạn các tranh, ảnh về đường Trường Sơn, nơi ông có 16 năm gắn bó trong cuộc đời binh nghiệp.
Tôi đặc biệt để ý một tấm ảnh không được sắc nét lắm nhưng rất tự nhiên, mộc mạc. Giữa núi rừng hoang vắng, những người lính công binh ăn mặc tuềnh toàng đang nghỉ tạm, có anh nhấp nhổm như chực đi, nụ cười thật hiền sau vành mũ cối. Ai đó trong những chuyến xe vào Nam đã bất chợt chụp bức ảnh này và trao lại cho đơn vị. Ồng Hiền xúc động giải thích: “Đây là toàn bộ cán bộ, chiến sĩ Đại đội 4, thuộc Tiểu đoàn 35, Binh trạm 33. Chúng tôi vừa hoàn thành nhiệm vụ vá đường, thông xe sau 5 trận trong ngày địch thả bom tọa độ ngầm và đèo trọng điểm Tha Mé”. Vậy là ông say sưa kể về Tiểu đoàn 35 và một thuở Trường Sơn “Cuốc tay mà vẽ nên trang sử vàng” (Tố Hữu):
 |
Trung tá Nguyễn Đức Hiền (giữa) gặp Trung tướng Phạm Kiệt (bên trái)-thủ trưởng cũ của mình trên đường Hồ Chí Minh, năm 1971. Ảnh tư liệu |
“Sau khi tập kết ra Bắc trong đội hình Sư đoàn 324, năm 1962, tôi vào lại Nam và gắn chặt đời mình với nghề công binh. Trước tiên là Chính trị viên Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn 70, rồi gần 4 năm (1965-1968) làm Chính trị viên Tiểu đoàn 35. Đây là thời gian địch đánh phá ác liệt nhất, tôi cũng có nhiều kỷ niệm về Trường Sơn nhất. Tiểu đoàn chúng tôi phụ trách ngầm Tha Mé và đường từ Tha Mé đi La Hạp. Đoạn đường này dài khoảng 70 ki-lô mét, là cung đường trọng điểm liên thông của ta nên địch đánh phá rất ác liệt. Ban ngày thì bom toạ độ, tối thì bom bi, bom phá B52. Còn F105, F4 “con ma”, “thần sấm” OV10 thì liên tục thả đèn dù, bom, pháo sáng dọa dẫm. Từng loạt bom nối nhau trút xuống đoạn đường hẹp, đợt sau chồng lên đợt trước, cây cối đổ ngổn ngang trên đường xen lẫn đất đá vùi lấp. Đường ngầm bị hư hỏng nặng, ô tô 3 cầu cũng không qua được. Với khẩu hiệu “Mặt đường là trận địa”, toàn tiểu đoàn cơm vắt muối rang, bám mặt đường khẩn trương sửa chữa cho xe qua. Khi ban ngày, khi mày mò trong đêm tối lên thượng lưu và cả phía hạ lưu đường ngầm vận chuyển đá đến lấp đầy những hố bom. Bộ quân phục thường xuyên ẩm ướt, mùa lạnh vẫn cởi trần dầm mình trên sông, khiêng đá trong cái lạnh cắt da. Làm đường không vất vả bằng làm ngầm. Ngầm Tha Mé chạy qua sông Sê Pôn nước sâu đến 2 mét. Để mở con đường qua ngầm rộng 6 mét, dài 60 mét, toàn tiểu đoàn huy động lực lượng kiên trì chuyền từng viên đá, men theo sợi mây dài. Vậy là chỉ khoảng một tuần con đường vượt ngầm đã thông.
Tôi nghĩ, điều giúp chúng ta mở được con đường Trường Sơn huyền diệu chính là sức mạnh tinh thần của người lính. Còn nhớ hồi cuối năm 1965, đường vận chuyển bằng cơ giới trên hành lang chiến lược chưa thông suốt. Thời điểm này chiến trường đang cần gạo. Do vậy việc cung ứng gạo trở thành nhiệm vụ trung tâm đột xuất của Đoàn 559. Cấp trên lệnh cho trạm 5 chi viện cho trạm 4 20 người. Nhưng trạm 5 có quá nhiều người ốm, chỉ chọn được 18 người. Mọi người cứ ngỡ Trạm 5 chấp hành lệnh không nghiêm và sẽ bị kỷ luật như chơi. Vậy mà đồng chí Võ Diêm, Trạm trưởng Trạm 5 đã báo cáo lên Tiểu đoàn thật dõng dạc: “Chúng tôi có 18 thực binh, ngoài ra còn có 2 đồng chí “Nguyễn Văn Trỗi” nữa. Chúng tôi trả thù cho anh Trỗi và làm việc thay cho anh Trỗi để đánh Mỹ, giải phóng quê hương”. Vậy là Trạm 5 với 18 người đã mang vác như 20 người.
Tôi vẫn nhớ như in đội ngũ cán bộ Đại đội 4. Anh Đồng Thế Quá, Đại đội phó và Lý Văn Thọ, Chính trị viên vừa bám bộ đội chỉ huy vừa trực tiếp khuân đá, vác gỗ, giành những việc nặng nhất để làm. Có ngày địch đánh phá liên tục, cơm tiếp tế không được, sau công việc tôi vẫn thấy hai anh ung dung đánh cờ, như không có việc gì xảy ra. Đặc biệt chiến sĩ Tiểu đoàn 35 Nguyễn Văn Thoát, dân tộc Tày, rất dũng cảm. Sau này anh đã được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Đó là một chàng trai đen gầy, ít nói, cần cù, dù nhiệm vụ khó khăn đến mấy cũng đều hoàn thành xuất sắc. Khi theo dõi bom rơi, tìm đánh dấu những quả bom chưa nổ, anh tập trung cao độ quan sát bất chấp nguy hiểm và anh không để sót một quả bom nào trúng mặt đường mà chưa nổ, dù là bom nổ chậm hoặc bom từ trường. Biết quan sát tỉ mỉ mà Thoát phát hiện được quy luật đánh phá các loại bom địch và tìm ra cách phá có hiệu quả.
Với tôi, đường Trường Sơn không chỉ có ác liệt mà còn là điểm hẹn hạnh phúc. Hàng nghìn nữ thanh niên xung phong từ ngoài Bắc đã vào Trường Sơn và chúng tôi, những chàng trai chưa vợ đã tìm thấy một nửa của mình từ các cô gái xinh đẹp, dịu dàng mà dũng cảm ấy. Gần 40 năm đồng hành cùng tôi từ Trường Sơn về Đà Nẵng, “bà xã” tôi đã chia sẻ với tôi bao buồn vui cho đến khi từ giã cõi đời năm 2007. Hiện nay 5 năm một lần, ban liên lạc truyền thống cựu chiến binh đường Trường Sơn tại Đà Nẵng với hơn 250 cựu chiến binh lại họp mặt với sự giúp đỡ về hậu cần của UBND thành phố Đà Nẵng.
Ôn lại những năm tháng đáng nhớ ấy, chúng tôi như thấy mình trẻ lại…”.
HỒNG VÂN