Ông Doanh với cuốn sổ ghi chép danh sách liệt sĩ.

Số nhà 39, đường Nguyễn Phước Chu, phường Hòa Hiệp Bắc, quận Liên Chiểu (Đà Nẵng), lâu nay trở thành địa chỉ quen thuộc và tin cậy của thân nhân liệt sĩ các tỉnh phía Bắc. Chủ nhân ngôi nhà ấy là ông Trần Ngọc Doanh, cựu chiến binh, cả chục năm nay bỏ công sức, tiền của đi tìm đồng đội...

Tấm lòng rộng trong căn nhà hẹp

Tiếng là nhà mặt phố, song khá đơn sơ, nếu không muốn nói là tuềnh toàng, nhưng lúc nào cửa cũng mở rộng, kể cả khi chủ nhân đi vắng. Thấy chúng tôi ngại ngần chưa dám vào nhà, một cụ già ở nhà bên cạnh đánh tiếng: “Các chú tìm ông Doanh phỏng? Cứ vào nhà tự nhiên. Giếng nước ở phía sau ấy tắm rửa đi cho mát, để tôi sai cháu đi tìm ông ấy cho”.

Chúng tôi chưa vội bước vào nhà, phần vì mình là người lạ, phần vì cũng muốn tìm hiểu thêm về chủ nhân ngôi nhà mà chúng tôi sắp phải cậy nhờ, nên lân la hỏi chuyện cụ già nhà bên. Cụ bảo: “Nhà ấy nghèo nhưng tốt bụng lắm. Chị vợ ra quán phụ với cô em bán cà phê để thêm thu nhập. Có được một mụn con trai, nghe đâu đang học vi tính, tin học gì ở dưới Đà Nẵng. Còn ông Doanh đi tối ngày, nào là việc phường, việc hội, nhiều khi có người cậy nhờ lại khăn gói lên đường, có đận đi cả tháng mới về”.

Đang vui chuyện, cụ như nhớ ra điều gì, bèn hỏi chúng tôi: “Chứ mấy chú tìm ông Doanh có việc gì? Nghe giọng nói chắc là người miền Bắc? Vậy đích thị là đi tìm mộ liệt sĩ phải không”.

Chúng tôi cùng đồng loạt nói: “Sao cụ biết ạ”. Cụ thủng thẳng: “Người phía Bắc, nếu là bà con với ông Doanh thì tôi đã biết. Với lại nghe các chú hỏi chuyện, tôi biết ngay là người không quen biết. Mà đã là người lạ thì đa phần đến nhờ ông Doanh tìm mộ liệt sĩ”.

Nghe chúng tôi thổ lộ, cụ già nói như đinh đóng cột: “Các chú cứ yên tâm, ai thì tôi không dám nói, chứ ông Doanh, tôi cam đoan với các chú, giúp được là ông ấy giúp liền. Cả chục năm nay ông ấy bỏ ra nhiều công sức tìm được cả trăm mộ liệt sĩ rồi đấy. Chả riêng gì liệt sĩ của đơn vị cũ của ông ấy ở khu vực Đà Nẵng này, mà cả những người không quen biết, có người thân hy sinh tận ở Đại Lộc, Thăng Bình, xa hơn nữa thì Gia Lai, Kon Tum, ông ấy đều tận tình giúp đỡ. Nhà cứ như trạm khách, hết đoàn này về, đoàn khác lại tới. Giường không đủ thì trải chiếu nằm dưới đất. Nhiều hôm nhà hết gạo, chị vợ phải điện thoại cho cô em gái chở đến giúp cả bao. Có đận cô em đi vắng, nhà hết cả gạo và tiền chợ, lại phải chạy sang hàng xóm…”.

Thoáng thấy bóng người ở đằng xa, cụ già gọi rối rít, quay sang chúng tôi, cụ bảo: “Ông ấy về rồi đấy. Người mỗi ngày một quắt lại, vậy mà chẳng bệnh tật gì đâu, chỉ khi nào vết thương cũ tái phát mới chịu nghỉ việc”.

Cuốn sổ tri ân đồng đội

Giở tấm sổ khá dày, ông cẩn thận ghi vào đó những thông tin chúng tôi cung cấp. Ông bảo: “Tôi sẽ cố gắng liên hệ giúp gia đình, khi nào có tin tức tôi sẽ điện thoại ngay...”.

Trong cuốn sổ dày đó là danh sách 545 liệt sĩ, đủ các vùng quê: Nghệ An, Thái Bình, Nam Định, Thanh Hóa, Hà Tây (cũ), Hà Nội, Hải Dương, Quảng Ninh, Hải Phòng, Cao Bằng… đã được ông thu thập, hoặc gia đình liệt sĩ cung cấp. Những hàng được đánh dấu bằng mực đỏ bên cạnh, là những liệt sĩ đã được tìm thấy. Chúng tôi đếm được trong đó 131 tên liệt sĩ có gạch chéo bằng mực đỏ, đã có 34 trường hợp được bàn giao cho các gia đình, ông đều ghi cẩn thận rõ ngày giờ. Ông kể rằng, những năm chiến tranh đơn vị đặc công của ông tác chiến ở vùng Quảng Nam và Đà Nẵng, đồng đội ngã xuống trên chiến trường này có đến mấy chục người. Sau giải phóng, ông được phân công cùng với cơ quan chính sách địa phương tổ chức quy tập mộ liệt sĩ của cả cánh Bắc Hòa Vang (Mặt trận 4 Quảng Đà), ngay từ lúc đó ông đã ý thức ghi chép lại các phần mộ liệt sĩ đã quy tập. Nhờ vậy mà sau này ông đã giúp được nhiều gia đình tìm được mộ và tổ chức đưa các liệt sĩ về quê.

Ông bảo: “Việc tôi làm chỉ đơn giản như vậy, nhưng sau đó có rất nhiều gia đình các liệt sĩ ở các vùng quê, người thì điện thoại, người thì hỏi thăm tìm đến tận nhà. Mặc dù những liệt sĩ ấy không phải là người đơn vị cũ, thậm chí khi nghe tên đơn vị lúc hy sinh tôi cũng không biết đơn vị đó ở đâu, nhưng cứ nhìn vào mắt thân nhân các liệt sĩ, tôi không đành lòng từ chối, dù biết rằng mình có nhận lời, cũng rất khó hy vọng tìm được. Song tôi lại nhủ lòng, cứ cố xem sao. Vậy là từ đó mỗi khi có dịp đi đâu xa, tôi thường ghé vào nghĩa trang các địa phương, phần để tìm xem có mộ các liệt sĩ cần tìm mai táng ở đó không, phần thì tôi ghi chép lại các liệt sĩ khác vào cuốn sổ này…”.

Tay giở cuốn sổ, ông kể cho chúng tôi nghe rành rọt từng trường hợp liệt sĩ mà ông đã tìm thấy. Như trường hợp liệt sĩ Nguyễn Văn Tuyên, quê ở Tân Phú, Tân Kỳ, Nghệ An; trong chiến tranh công tác và chiến đấu ở Đoàn Phú Lộc, Thừa Thiên - Huế (Quân khu 4), vậy mà khi gia đình liệt sĩ tìm đến, ông đã lặn lội ra tận khu vực đèo Phước Tượng (Thừa Thiên - Huế), qua những ngày dò hỏi nhân dân địa phương, đã tìm thấy hài cốt liệt sĩ để bàn giao cho gia đình. Hay, liệt sĩ Mai Công Mùi, quê ở Tân Kỳ, Tứ Kỳ, Hải Dương. Với liệt sĩ Mùi, ông không hề có chút thông tin gì, bởi trong chiến tranh, đồng chí Mùi chiến đấu ở Trung đoàn 38, Sư đoàn 2 (Quân khu 5), sư đoàn cơ động theo suốt chiều dài của dải đất Khu 5. Biết tìm liệt sĩ nơi đâu, câu hỏi cứ lửng lơ trong tâm tưởng của ông suốt mấy tháng liền. Điện thoại hỏi đơn vị cũ, thì không có; liên hệ đến những vùng nơi Trung đoàn 38 tác chiến trong chiến tranh, người nói có, người nói không, ông tưởng như thế là vô vọng. Song mỗi lần như vậy, hình ảnh cô Mai Thị Hồng Diên (con gái liệt sĩ) đầm đìa nước mắt, lặn lội từ quê vào tìm cha, ánh mắt như van lơn, chứa đầy hy vọng ấy lại thôi thúc ông lên đường… Và cuối cùng, ông cũng tìm ra phần mộ liệt sĩ ở khu vực Hồ Phú Ninh (Quảng Nam) để bàn giao cho gia đình…

Tôi hỏi: “Những chuyến đi như vậy, vừa tốn thời gian, vừa tốn kinh phí, bà nhà…”. Không để tôi nói dứt lời, ông cười trừ: “Đâu rồi cũng vào đó cả, khi thì tôi đi nhờ được xe, khi thì bắt xe đò. Đến các địa phương khi biết tôi đi tìm mộ liệt sĩ, bà con cho ăn, cho nghỉ nhờ, nhiều người còn dùng cả phương tiện của gia đình chở tôi đến các địa chỉ cần tìm. Đơn vị cũ của tôi ở Đà Nẵng nay cũng còn vài chục đồng đội, người đang tại chức, người thì phục viên, chuyển ngành, thi thoảng vẫn “chi viện” thêm kinh phí cho bà xã mua thêm gạo và thực phẩm, mỗi khi có các đoàn thân nhân liệt sĩ ở phía Bắc vào. Thú thực với các anh, tìm được các liệt sĩ có công giúp đỡ của đồng bào, đồng chí mình nhiều lắm…”.

Trước khi chia tay, ông trao cho chúng tôi một tờ giấy, trong đó có ghi chép sẵn. Ông bảo: “Nếu có điều kiện, nhờ các anh thông tin trên Báo Quân đội nhân dân giúp tôi vài trường hợp này, biết đâu qua thông tin trên báo, tôi sẽ tìm ra thân nhân các liệt sĩ”. Chúng tôi xin chép nguyên văn hai trường hợp mà ông Doanh cung cấp: Liệt sĩ Nguyễn Văn Bảo, đơn vị: Công binh Hải Vân, quê quán: Thị trấn Mường Thanh, TP Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên (Hiện ông Doanh đã tìm ra nơi mai táng liệt sĩ trên đèo Hải Vân). Trường hợp thứ hai: Liệt sĩ Điền, không rõ quê quán, đơn vị; đã được an táng ở nghĩa trang thị trấn Thạnh Mỹ (Quảng Nam). Vậy ai là thân nhân các liệt sĩ trên xin liên hệ với ông Trần Ngọc Doanh,  theo địa chỉ trên (điện thoại: 0984047435).

Tôi không biết kết thúc bài viết này như thế nào, bởi “những điều giản dị”-nghĩ và nói như ông Doanh, đối với chúng tôi và cả chúng ta nữa, đều quá thiêng liêng, quá trân trọng. Những việc ông làm, ông bảo là để tri ân đồng đội, đồng bào. Còn chúng tôi, chúng tôi viết những dòng này là để tri ân ông, người cựu chiến binh, thương binh để lại nhiều kính trọng và khâm phục cho chúng tôi.

Bài và ảnh: ĐẶNG TRUNG HỘI