Anh Trỗi và chị Quyên ngày cưới. Ảnh tư liệu

Cách đây 45 năm, ngày 15-10-1964, anh Nguyễn Văn Trỗi đã hy sinh lẫm liệt giữa pháp trường Sài Gòn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: ‘‘Vì Tổ quốc, vì nhân dân, liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi đã anh dũng đấu tranh chống đế quốc Mỹ đến hơi thở cuối cùng. Chí khí lẫm liệt của Anh hùng Trỗi là một tấm gương cách mạng sáng ngời cho mọi người yêu nước, nhất là các cháu thanh thiếu niên học tập”.

Chúng tôi về thôn Thanh Quít, xã Điện Thắng Trung (Điện Bàn, Quảng Nam) thăm nhà anh Trỗi. Ba gian thờ nghi ngút khói hương. Trên bàn thờ ngoài cùng là di ảnh người thanh niên có gương mặt thư sinh với 9 phút làm nên lịch sử. Bức tượng bán thân bằng đồng đặt trang trọng bên cạnh. 45 năm đã trôi qua, nhưng trong tâm tưởng mọi người anh vẫn trẻ mãi như bức ảnh này.

May mắn là tại quê, chúng tôi được gặp ông Nguyễn Văn Toàn, anh trai anh Trỗi. Kể về em trai mình, giọng ông đượm buồn: “Từ nhỏ mấy chị em tôi sống với mẹ, còn cha phải lưu lạc ở Sài Gòn. Khoảng đầu năm 1947, khi giặc Pháp trở lại xâm lược Đà Nẵng, làng Thanh Quít chìm trong khói đạn. Mẹ tôi gồng gánh dắt díu 4 chị em tản cư. Tài sản đem theo chẳng có gì ngoài 4 người con nheo nhóc. Tôi còn nhớ mẹ tôi cho Trỗi và Đức ngồi vào 2 đầu thúng gánh đi, tôi và chị Hai Thoàng chạy lúp xúp theo chân mẹ. Gần một năm sau khi trở về, xóm làng nhà cửa bị cướp phá. Cả gia đình phải đi ở nhờ người bà con. Tiếp đó là chuỗi ngày rất cơ cực nên mẹ tôi đã vĩnh viễn ra đi ở tuổi 37 vì đói và rét.

Mẹ mất, cha đang ở Sài Gòn, mấy chị em dắt díu nhau qua ngày ở nhà người bác ruột là Nguyễn Văn Mậu. Tuy vậy, cảnh nhà nghèo khó, nỗi đau xót mất mẹ, xa cha vẫn đè nặng tuổi thơ của chúng tôi.

Lớn thêm một chút, tôi ra Đà Nẵng làm công cho một hãng bánh kẹo. Ít lâu sau, tôi kéo Trỗi cùng ra học nghề may. Không bao lâu thì Trỗi bỏ vào Sài Gòn. Tôi còn nhớ ngày đó bến sông Hàn có tàu Nam Việt đang chuẩn bị khởi hành. Trỗi đã lên tàu, sau khi để lại cho tôi một lá thư từ biệt. Tôi đi làm về đọc thư thì tàu đã rời bến. Tôi gọi em đến khô giọng nhưng tàu đã ra giữa dòng. Sau này, Trỗi về lại Đà Nẵng thăm tôi mấy lần. Tôi nghỉ việc đi chơi với em ở núi Non Nước và nhiều nơi khác. Tôi thấy Trỗi chững chạc rất nhiều, hay nói về cảnh mất nước, Mỹ ngụy đàn áp nhân dân hoặc kể về những chiến công của biệt động Sài Gòn với giọng rất háo hức. Tuy nhiên tôi không hề biết việc em tham gia cách mạng. Ngày Trỗi làm đám cưới với Quyên, tôi cùng cha vào dự, cả nhà rất vui khi thấy hai vợ chồng hạnh phúc. Về chưa được nửa tháng thì nghe tin Trỗi bị bắt. Cha con lại tức tốc vào. Tôi chạy luật sư, tìm người can thiệp nhưng không được. Sau khi Trỗi bị tử hình, bọn chúng chôn em tôi ở nghĩa trang của thành phố, thường xuyên cắt người theo dõi. 5 năm sau khi nghĩa trang giải tỏa, chúng thông báo cho dời hài cốt. Gia đình thím Quyên (lúc này Quyên đã ra Bắc) xin phép cha tôi đưa Trỗi về nơi chôn cất của dòng họ, nay là khu Phú Hữu, quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau ngày giải phóng, gia đình nhiều lần muốn dời mộ về quê. Nhưng theo ý nguyện của thím Quyên, cha tôi đã đồng ý để chú ấy ở trong đó. Có dịp, chúng tôi lại vào thắp hương vào ngày giỗ Trỗi, 10-9 âm lịch”.

Khi được hỏi, anh Trỗi mất, bọn chúng có làm khó dễ gia đình không, ông Toàn, chỉ vào 2 ngón chân của bàn chân trái bị chặt cụt của mình: “Chúng hành dữ lắm, bắt bớ đánh đập liên tục. Biết không thể thoát đi quân dịch, tôi chặt ngón chân. Hai đứa em là Nguyễn Văn Đức và Nguyễn Văn Dũng đang đi học cũng thoát ly theo cách mạng. Đức đi công an, được đưa ra Bắc học tập nhưng cứ nằng nặc về quê hương chiến đấu trả thù cho anh trai, rồi hy sinh năm 1972 ngay tại Bồ Mưng, xác chúng quăng trên đường cái. Cha tôi kiên cường lắm. Bị đánh, tra khảo, theo dõi thường xuyên vậy mà ông vẫn đào 3 công sự trong vườn nhà, nuôi giấu hàng chục du kích, nhiều lần bình tĩnh cản địch giúp anh em thoát chết. Ông là chỗ dựa vững chắc cho cán bộ ở vùng yên tâm đi về hoạt động. Ông mất đã 14 năm, ngôi nhà ni bây giờ không còn ai ở. Tôi và Dũng cùng chị Hai Thoàng đều ở Đà Nẵng. Chỉ có mấy đứa cháu trong họ hàng ngày đến mở cửa thắp hương, đón tiếp các đoàn đến thăm. Cách đây mấy năm, tôi và thím Quyên cùng sửa lại ngôi nhà, để nơi thờ phụng khang trang hơn. Bức tượng bằng đồng cũng là của thím ấy mang từ Sài Gòn về…”.

Nhà lưu niệm anh Trỗi hiện nay do Tỉnh đoàn Quảng Nam-Đà Nẵng (cũ) phát động đoàn viên thanh niên đóng góp xây dựng ngay tại Điện Thắng, đã thực sự là “địa chỉ đỏ” của thanh, thiếu niên trong xã và tuổi trẻ cả nước. Tôi còn nhớ, có nhiều buổi sáng sớm, trước hiên nhà lưu niệm có rất nhiều bó hoa tươi từ những chuyến xe khách Bắc-Nam đi ngang qua. Xe đi vội vã nên họ đã không kịp chờ nhà lưu niệm mở cửa.

Hồng Vân