Dẫu đã 63 năm trôi qua, dẫu tôi đã ở vào cái tuổi “Thất thập cổ lai hy”, song những gì đã làm đổi đời ở đất Thăng Long-Hà Nội thì trong óc tôi đã khắc rất đậm nét, không bao giờ phai mờ.
Chỉ sau ngày 2-9 có ba tuần lễ thì ngày 23-9-1945, thực dân Pháp được quân Anh giúp sức, đã trắng trợn nổ súng gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai.
Tại Hà Nội, ngày 24-9-1945, Thanh niên Thủ đô đã tổ chức tuần hành trên các đường phố, đề nghị Chính phủ cho vào Nam chiến đấu. Trong đoàn tuần hành đó, họ Chu nhà chúng tôi có ba người, đó là: Chu Tấn Đạt, Chu Quốc Thái và Chu Quốc Tấn.
Thời giờ có được để chuẩn bị cho cuộc trường chinh lịch sử chỉ đủ cho một số chàng trai đất Hà thành, họ đến Hàng Bông, Hàng Quạt, Hàng Nón... may vội chiếc mũ “chào mào” theo mẫu mũ ca lô của nhi đồng tháng Tám. Riêng cái phù hiệu của nhi đồng là cây măng non thì các chàng thư sinh hào hoa Hà Nội lại may thành ngôi sao tròn, sao vàng 5 cánh và thêu kim tuyến màu xanh xung quanh ngôi sao (để tỏ ra ta là sĩ quan).
Ngày 26-9-1945, tức ba ngày sau quân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài Gòn thì đoàn quân Nam tiến đầu tiên đã rời Thủ đô lên đường, vào sát cánh cùng quân dân Nam Bộ chiến đấu chống Pháp.
Đoàn quân Nam tiến đầu tiên ấy của Hà Nội là Chi đội I (mỗi Chi đội tương đương 1 Trung đoàn). Chi đội I gồm 3 đại đội của Hà Nội, Bắc Kạn, Lạng Sơn và một số cán bộ quân sự Trường Quân chính đã lên tàu hỏa tại ga Hàng Cỏ (ga Hà Nội). Chi đội trưởng là anh Hoàng Thảo, Chi đội phó là anh Nam Long. Đại đội của Hà Nội mang tên “Đại đội Vi Dân” (lấy tên người Đại đội trưởng) gồm hầu hết là anh em tự vệ, công nhân, học sinh (ban Thành Chung) đã tham gia chiếm phủ Khâm sai ngày 19-8-1945, sau này là Phủ Chủ tịch. Tiếp theo đó, những đoàn quân Nam tiến của các tỉnh Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, cũng hăng hái lên đường Nam tiến.
Tại ga Hà Nội (Hàng Cỏ) họ hát vang bài “Du kích ca” của nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi:
... Anh em trong đoàn quân du kích/ Cùng vác súng lên nào.
Đi lên! Đi lên! Xuyên qua rừng qua núi, trong sương mờ đêm tối, vượt suối băng ngàn/ Giặc tiến tới đây, súng kia cùng nhau cướp lấy/ Nhằm cùng nhau bắn, mấy viên là mấy quân thù/...
Tại ga Văn Điển (thuộc huyện Thanh Trì) các chị gái trong họ Chu chúng tôi gồm: Chu Thị Long, Chu Thị Phượng, Chu Thị Vui... cùng số thiếu nữ trong làng Cổ Điển A, xã Tứ Hiệp, huyện Thanh Trì, “diện” quần lĩnh bóng, áo dài kép tứ thân, đội nón dứa quai thao, đứng dọc nhà ga Văn Điển để tiễn người thân, cùng những chàng trai Bắc Bộ Nam tiến.
Từ trên các toa tàu, lại vọng xuống quốc lộ 1 những câu hát hết sức tráng khí ca:
Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi/ Nào có mong chi ngày trở về... Ra đi ra đi bảo tồn sông núi/ Ra đi ra đi thề quyết không lui...
Những bà chị, những cô gái áo tứ thân ấy vẫy đến gẫy vành nón dứa “Bài thơ” mà cảm thấy rất tự hào vì được là người dân đất Việt.
Ông Chu Quách Hoạt, bố đẻ của anh Chu Tấn Đạt chiều hôm đó đãi anh em nội tộc một bữa cơm thịnh soạn gồm gà thiến và rượu “quốc lủi”.
Bẵng đi 9 năm (1945-1955), ông anh Chu Tấn Đạt, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn đặc công Long Châu Hà được đưa vợ con tập kết ra Bắc. Tôi thì ở quân khu Tây Bắc, được về họp trợ lý văn nghệ toàn quân, do vậy được gặp nhau và anh Chu Tấn Đạt trao cho tôi tấm ảnh “Nam tiến” của anh. Sau đó, anh được sang Trung Quốc học về nghề quân giới, chuyên ngành hỏa cụ.
Năm 1962, anh Đạt lại được lệnh về Nam làm quân giới của quân khu 7, chuyên lo về mìn định hướng, thủy lôi hẹn giờ và “thủy lôi trái xoài” (vỏ ngoài là quả xoài khô) đáp ứng cho đặc công nước của cả vùng Nam Bộ. Còn vợ anh, chị Huỳnh Thị Lưu là cán bộ hóa chất ở Nhà máy cơ khí, Hà Nội.
Năm 1973, con trai trưởng của anh là Chu Quốc Phòng, được tuyển đi học lái máy bay phản lực ở Liên Xô (cũ) nhưng cháu Phòng xung phong vào đoàn quân “Mũ tai bèo” vượt Trường Sơn vào Nam chiến đấu cùng với cha đẻ.
Đầu tháng 4-1975, cháu Chu Quốc Phòng đã anh dũng hy sinh trong trận tiến công giải phóng thị xã Phan Rang, một trong những cửa ngõ quan trọng để ta tiến vào giải phóng Sài Gòn.
NGỌC MINH